Tuesday, November 27, 2018

Bối Cảnh Nhân Học Bí Tích Thống Hối - Giao Hòa

Nhân học hướng thần hay nhân học Kitô giáo (Christian Anthropology) xuất hiện như là câu trả lời của Giáo hội Công giáo cho các chủ nghĩa nhân bản vô thần. Thuật ngữ này nói đến quan niệm về con người dưới lăng kính Kitô giáo.[1] Trong đó, vấn đề tục hóa hiểu như là “hậu quả của sự chia cắt kinh tế, xã hội, chính trị với khuôn mẫu tôn giáo, một khuôn mẫu làm nảy sinh chính cách thức thực hành xã hội, chính trị và kinh tế này[2] Phải chăng con người đã và đang đánh mất đi chính căn tính (tôn giáo) của mình sống trong tình trạng khủng hoảng? Hay con người thời nay đánh mất đi giá trị siêu thăng của mình khi mất đi cảm thức tội lỗi? Đây không chỉ là vấn đề của nhân học nhưng còn là vấn đề của bí tích, đặc biệt là bí tích thống hối và giao hòa. Vì thực tế, nhiều Kitô không còn thiết tha trở về cùng Thiên Chúa qua bí tích Thống hối – Giao hòa. Mặt khác, Giáo hội không giới hạn mình trong hệ thống tội-phạt, hối-cứu như bản tóm hành trình của dân Do Thái trong Cựu ước, hay hình thức giá biểu từng được áp dụng để rồi bị xem là giới hạn trong luật bởi các chuẩn mực luân lý. Bài viết tập trung nhìn nhận về Bí tích Thống Hối và Giao Hòa qua việc trình bày tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc Tế (ITC)[3] về bối cảnh nhân học[4] của bí tích này để nói lên tầm quan trọng của bí tích Thống hối – Giao hòa trong việc tiếp cận với các nền văn hóa đa dạng. Qua đó, tìm ra câu trả lời cho xã hội khủng hoảng khi con người chỉ được xem là thuần vật chất và đậm tính thực dụng.
Khởi đi từ bản chất của bí tích giao hòa dưới quan điểm của nhân học, lỗi phạm và tội lỗi, giao hòa và thống hối được tìm thấy trong mỗi người, trong mỗi nền văn hóa và tôn giáo và trong cả quá trình lịch sử. Điểm đáng ghi nhận là sự giao hòa được trao ban bởi chính Thiên Chúa nhằm mục đích biến đổi và thanh tẩy con người. Do đó, thống hối và giao hòa vừa là ân sủng của Thiên Chúa vừa là sự hồi đáp của con người, vừa là quà tặng của Thiên Chúa vừa là một hành vi nhân linh (actus humanus). Chính trong sự hội nhất thần tính và nhân tính mà cần thêm vào yếu tố nhân học cũng như các yếu tố kinh tế, xã hội, tâm lý và tâm linh (ITC A.I.1). Việc mất đi cảm thức đức tin đã diễn ra trong cuộc khủng hoảng về cách hiểu cũng như thực hành thống hối khi loại bỏ và không đặt trọng tâm vào tín lý, nguyên tắc cũng như chi tiết về các vấn đề mục vụ. Điều này khiến chúng ta cần nhìn lại vấn đề trong nội bộ Giáo hội để tìm ra nguyên nhân. Phải chăng việc thực hành trong Giáo hội không còn phù hợp với những vấn đề đang diễn ra trong xã hội? Một trong những vấn đề cần quan tâm là cuộc cách mạng xã hội Tây phương ảnh hưởng lên con người hiện đại khiến họ không còn nhận ra lỗi phạm hay tội lỗi trong đời. Chúng không còn được hiểu là nguyên nhân chính yếu mà chỉ là điều gì đó thứ yếu phát xuất từ tự nhiên, văn hóa, xã hội, lịch sử, hoàn cảnh hay vô minh (unconscious) và trở thành một lý tưởng hay ảo tưởng. Do đó, lương tâm bị suy yếu và xã hội tục hóa ngày một lớn mạnh hơn khi loại bỏ sự ảnh hưởng của Kitô giáo cách riêng và tôn giáo cách chung (ITC A.I.2). Sự đổi mới của nhân học về bí tích Thống hối cần bắt đầu từ việc đổi mới nhân sinh quan về con người đậm tính tôn giáo và luân lý. Bởi lẻ, từ căn tính, con người có tự do và biết hối lỗi; con người không chỉ là một đối tượng tâm lý, kinh tế, xã hội và văn hóa vô danh mà còn là một chủ thể tự do và có trách nhiệm. Khi lỗi phạm và tội lỗi không còn được tri nhận thì con người hiện hữu bị đe dọa. (ITC A.I.3). Căn tính vô điều kiện của con người là tương quan với Thiên Chúa, là giống Ngài, và đi vào tương giao với Thiên Chúa qua ân sủng. Chỉ trong tương giao với Thiên Chúa con người mới tìm ra được câu trả lời cho tra vấn trong nội tại sâu thẳm của mỗi người. Do đó, thức tỉnh căn tính con người là sự đổi mới bắt đầu từ việc trở về với Thiên Chúa và đổi mới cộng đoàn với Ngài. Đây chính là sự siêu thăng của con người. (ITC A.I.4). Tiếp đến, về khía cạnh nhân học của bí tích Thống hối, con người tự nhiên có bản chất liên kết với thân xác. Điều này phụ thuộc vào tình trạng thể lý, kinh tế, xã hội, văn hóa và tâm lý. Hơn nữa, lỗi phạm và tội lỗi thể hiện trong hệ thống và cấu trúc do con người và xã hội tạo ra. Ngược lại, chính cấu trúc mời gọi con người sa ngã và phạm tội, tựu trung trong ý nghĩa tương đồng thường được gọi là ‘cấu trúc tội” hay “tội hệ thống”. Dù theo nghĩa chặt chỉ có con người tự mình phạm tội nhưng không thể phủ nhận chính cấu trúc cấu thành tội và tạo điều kiện cho tội xảy ra. Do đó, cần có có sự thay đổi cấu trúc để tạo tiền đề cho sự hoán cải cá nhân để dẫn dến sự hòa giải. Cách cụ thể là loại bỏ những cấu trúc tà ác để con người ít bị phụ thuộc bởi vị trí và trách nhiệm được xã hội giao phó, hay thoát ra khỏi sự bách hại mà được tái sinh qua sự thống hối. Như thế, việc xưng tội và thống hối cần được xem xét trong chiều kích thể xác lẫn thế giới để có một cuộc biến đổi hoàn toàn trở về cùng Thiên Chúa. (ITC A.II.1). Khía cạnh cá thể và xã hội cần được xem xét cân bằng trong con người. Bởi lẽ, hoán cải trở về cùng Thiên Chúa cũng là hoán cải trở về cùng anh chị em. Chỉ ai cảm nghiệm được tình yêu thì mới có thể mến Chúa yêu người. Do đó, bí tích Thống hối không chỉ đơn thuần là thái độ riêng tư hay nội tâm sâu thẳm mà còn được nhìn nhận dưới khía cạnh xã hội. Đây cũng là điểm quan trọng về khía cạnh công chính hóa mang tính giáo hội và bí tích của bí tích Thống hối. (ITC A.II.2). Khía cạnh thời gian và lịch sử cũng được nhấn mạnh như là điều kiện để nhận ra sự hiện hữu của con người. Căn tính con người được tìm thấy khi thú nhận quá khứ tội lỗi và mở ra cho một tương lai mới. Con người đứng thẳng lên để đến với Chúa và anh chị em khi trút bỏ sự tự kỷ đang đè nén khiến con người phải cong lưng, cúi mình. Chính trong sự soi sáng nhân học mà bí tích Thống hối thể hiện rõ hơn cấu trúc đối thoại và được tri nhận trong thực hành. (ITC A.II.3). Giá trị của sự hối cải khi thống hối và xưng thú tội lỗi là con người đụng chạm vào bí mật sâu thẳm nhất của mình, cũng là bí mật của Thiên Chúa. Chính lúc đó niềm hy vọng của con người được đổ tràn trong ý nghĩa tuyệt đối và trong sự giao hòa mang tính cánh chung của thế giới vốn được mặc khải qua Chúa Giêsu Kitô. (ITC A.II.4).
Nhìn lại vấn đề, chủ nghĩa nhân bản vô thần dường như đi ngược lại với những gì mà nhân học Kitô giáo nhìn về con người. Cách cụ thể, chủ nghĩa này loại bỏ Thiên Chúa, nhìn con người chỉ thuần vật chất qua giá trị sử dụng dẫn đến thái độ thực dụng đến lối sống dững dưng. Đối diện với vấn đề này, Karl Rahner đã nhận định tôi sống trong một cộng đoàn không chỉ dựa trên những gì là căn bản cho đời sống vật chất, nhưng còn dựa trên đời sống thiêng liêng”[5]. Cũng vậy, Giáo hội không phủ nhận những giá trị vật chất của con người nhưng đề cập đến giá trị thiêng liêng. Nếu thuần vật chất thì con người có khác chi con vật, khác chi các cỗ máy di động? Liệu con người có thể sống mà không có các mối tương quan với nhau trong thái độ dững dưng không? Điều này không chỉ là quan tâm của Kitô giáo mà còn là bận tâm của các tôn giáo khác. Vì thế, các giá trị căn bản của con người, mà cách riêng là tội lỗi và ân sủng, phạm tội và thống hối, trở thành tiếng nói chung của tôn giáo khi đối mặt với khủng hoảng xã hội ngày càng khiến con người chỉ quan tâm chu toàn các bổn phận và trách nhiệm mà xã hội đã quy định, ý thức vì luật. Sống đạo tại tâm, tôn trọng các giá trị nhân văn, xem ra rất phù hợp với xã hội và con người hiện đại khi cố gắng loại bỏ yếu tố thần linh mà chỉ quan tâm những giá trị có thể cân đo đong đếm được. Khi đó, con người biết thống hối và muốn biến đổi để tìm sự giao hòa nhưng giao hòa với ai, cội nguồn linh thánh để thật sự hàn gắn các mối tương quan là gì? Phải chăng con người khi đó lại lạc lõng, lại mãi đi tìm một chốn an nghỉ thật sự nào đó?
Tạm kết, bí tích Thống hối – Giao hòa giúp con người trở về với Thiên Chúa để kết hợp với Ngài, hiệp thông với anh chị em và sống trong sự an nhiên nội tâm (GLHTCG 1468-70). Qua đó, con người chấp nhận ‘luật tiệm tiến’ để nổ lực sống tốt hơn, ý nghĩa hơn, toàn vẹn hơn khi mỗi ngày trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn mỗi người. Cuối cùng, con người được tha thứ và sẵn sàng tha thứ cho nhau để hướng về sự tha thứ và hạnh phúc viên mãn cánh chung.



[1] Henri-Jérôme Gagey. Nhân Học Kitô Giáo. Lm. Fx. Nguyễn Tiến Dưng, AA trans. (Lưu hành nội bộ). 5.
[2] Ibid. 220.
[3] Viết tắt ITC = International Theological Commission. Penance and Reconciliation. (Rome, 1982).
[4] Anthropological Context of Penance.
[5] Henri-Jérôme Gagey. Op.cit. 16.

Sunday, October 21, 2018

Vai trò của Đức Maria trong việc sống mối tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi của người tu sĩ


Đời sống tu sĩ, hay đời sống thánh hiến khởi đi từ việc rút lui khỏi những biến động của cuộc sống bên ngoài để lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa. Theo từng linh đạo cụ thể, người tu sĩ đáp lại tiếng Chúa qua những hành trình nên thánh đặc biệt khác nhau. Thời các tông đồ, các Ngài đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa để được ở với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và được Chúa sai đi. Những cộng đoàn tiên khởi đã được các Ngài thiết lập và phát triển để loan báo Tin Mừng cứu độ. Trải qua thời bách hại, các thánh tử đạo đã nêu cao con đường thập giá khi rập khuôn với mầu nhiệm Vượt Qua bởi chính những passio[1] của các vị. Trong thời Kitô giáo được công nhận, các thánh nhân lại lui vào nơi hoang vắng để tìm về ý nghĩa thật sự của đời sống Kitô hữu, để nên giống Chúa trong mọi sự. Khi các đan viện không còn vị trí thì các anh em theo linh đạo ‘hành khất’ đã xuất hiện để bắt đầu đời sống chiêm niệm và hoạt động. Ngày nay, các tu sĩ hoạt động đã không còn xa lạ, họ đã hiện diện và được mời gọi vào đời để làm chứng giữa đời, đem Tin Mừng Phục Sinh đến cho tất cả mọi người như thời sơ khai. Trong mọi hành trình đó, đời sống thánh hiến thể hiện theo một danh nghĩa đặc biệt việc tuyên xưng Chúa Ba Ngôi (confession Trinitatis).[2] Cũng thế, trải qua đôi dòng lịch sử của đời sống Kitô hữu, cách riêng đời sống thánh hiến, bóng dáng của Mẹ Maria xuất hiện và che phủ đậm nét trên mọi hành trình. Đức Mẹ đã đồng hành với Chúa Giêsu trong hành trình dương thế từ lúc Người nhập thể, trãi qua cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Mẹ cũng hiện diện cộng đoàn tiên khởi, đặc biệt trong ngày lễ Ngũ Tuần để cùng cầu nguyện và lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Mẹ lại còn hiện diện luôn mãi trong đời sống của các tu sĩ theo từng bước thăng trầm khác nhau. Vậy trong việc sống mối tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi của các tu sĩ, Đức Mẹ đã đồng hành trong đời sống thánh hiến trong vai trò là người mẹ, là người ‘đồng công’, và là mẫu gương tuyệt vời như thế nào?

1.    Thiên Chúa Ba Ngôi

Tông huấn Đời Sống Thánh Hiến của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đã xác định ơn gọi đời sống thánh hiến bắt nguồn từ Chúa Cha thông qua Chúa Giêsu Kitô (Ga 15, 16). Ngài đã muốn những người được tuyển chọn “đáp trả bằng việc hiến mình trọn vẹn và tuyệt đối”. Quả thật, mỗi người tu sĩ đã tự nguyện phụ thuộc vào trong một linh đạo, một cộng đoàn nào đó cũng bởi vì thấu cảm được tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đã dành cho họ. Đời sống thánh hiến như ‘hy lễ toàn thiêu’ dâng lên Thiên Chúa là cách thức xứng hợp nhất để diễn tả về sự hiến dâng trọn vẹn[3]. Do đó, người tu sĩ không chỉ đáp lại lời mời gọi của Chúa Cha nhưng còn bước theo dấu chân của Đức Kitô. Điều đó đòi buộc, người tu sĩ từ bỏ mọi sự (Mt 19,27) và đồng hành với Chúa Con trên mọi nẻo đường, là “của đầu mùa dâng lên Thiên Chúa và Con Chiên” (Kh 14, 4). Khi tuyên khấn, họ ước mong được đồng hình đồng dạng  với Chúa Giêsu Kitô để mang trong mình những tâm tình và có lối sống như Người[4]. Hơn nữa, đời tận hiến gắn liền với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Chính Ngài là Đấng thúc đẩy người tu sĩ lựa chọn qua việc gợi lên ước nguyện đáp trả trọn vẹn. Khi đã lựa chọn, Ngài luôn theo sát để nâng đỡ, đào tạo và củng cố người tu sĩ trung thành với lựa chọn của mình.[5]
Ba ngôi Thiên Chúa đã ban cho đời sống tận hiến một ân huệ đặc biệt là các lời khuyên Phúc Âm. Quả thật, “đời thánh hiến loan báo những gì Chúa Cha, nhờ Chúa Con, trong Thánh Thần đã thực hiện do tình yêu, do lòng nhân lành, do vẻ đẹp của Người.” Chính đời tu trì là dấu chứng hữu hiệu nhất về những giá trị thật sự của Tin Mừng vượt trên của cải, quyền lực và dục vọng của trần gian. Bởi vì, đời sống khó nghèo cho thấy Nước Chúa mới chính là kho tàng thật sự, là diễn tả việc Ba Ngôi Vị Thần Linh trao ban trọn vẹn cho nhau. Trong sự vâng phục, người tu sĩ không những không mất đi tự do mà còn được giải phóng khỏi sự phụ thuộc như con cái thuộc về cha mẹ trong tinh thần trách nhiệm. Nó phản ánh ra lịch sử mối hòa hợp tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Cũng thế, lời khấn khiết tịnh chứng tỏ một con tim dâng hiến trọn vẹn, là phản ánh tình yêu vô biên đang nối kết Ba Ngôi Vị Thần Linh trong chiều sâu nhiệm mầu của đời sống Ba Ngôi.  Tựu trung, những lời khuyên Phúc Âm  tuyên xưng và biểu lộ Ba Ngôi trong đời sống tu sĩ.[6]  
Mỗi cộng đoàn dòng tu được xây dựng dựa trên linh đạo tiên khởi mà Đấng sáng lập đã được linh hứng trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Mỗi đặc sủng của cộng đoàn hay còn gọi là đoàn sủng luôn hướng về: (1) Chúa Cha như người con thảo muốn tìm kiếm thánh ý của cha mẹ; (2) Chúa Con – để hiệp thông trong tình anh chị em; (3) Chúa Thánh Thần – lãnh nhận sự hướng dẫn và nâng đỡ.[7] Quả thế, đời sống cộng đồng là phản ánh sống động và sâu sắc mầu nhiệm hiệp thông trong tình huynh đệ của Giáo hội khi "đoàn dân được kết hiệp nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".[8] Để điều đó nên trọn vẹn, Thiên Chúa Cha là “Đấng đào tạo siêu việt” đã không ngừng tặng ban Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần cho các tu sĩ qua trung gian những nhà huấn luyện. Họ đã là những người trẻ, cả nam lẫn nữ, sẵn sàng tham gia vào công việc của Chúa Cha khi phát huy tâm tình Người Con trong chính thâm tâm sẳn sàng tận hiến. [9] Hơn nữa, sự tận hiến không chỉ dừng lại ở việc tuyên khấn mà còn đạt đến sự trọn đầy hơn khi sẵn sàng được ‘sai đi’ với các sứ mạng khác nhau. Điều này đòi hỏi việc sống các lời khuyên Tin Mừng một cách trọn vẹn để “cho chính Đức Kitô hiện diện bằng chứng tá bản thân” dù sống đời đan tu hay hoạt động tông đồ. Chính khi tu sĩ thi hành sứ mạng đặc thù của cộng đoàn thì cũng chính là lúc giá trị tông đồ của đời tận hiến được nên trọn vẹn hơn.[10]

2.    Vai trò của Mẹ Maria

a.    Mẹ Thiên Chúa [11] Mẹ các tu sĩ
Mẹ Maria đã đồng hành với Chúa Giêsu trên nhiều biến cố quan trọng của cuộc đời. Đặc biệt, Mẹ đã hiện diện dưới chân Thánh Giá khi con của Mẹ trao thần khí. Cũng chính lúc đó, Đức Maria đã được trao cho một tình mẹ đặc biệt, đó là mẹ của nhân loại, cách riêng là mẹ những người thánh hiến đời mình cho Chúa. Quả thật, Mẹ là VIRGO PARENS, Người trinh nữ sinh con, nghĩa là Đấng “nhờ đức tin và sự vâng phục đã sinh Người Con của Chúa Cha vào trong trần thế, mà không có sự cộng tác của nam nhân, nhưng được Chúa Thánh Thần bảo bọc”[12]. Vì thế, Mẹ không những là hiền mẫu của Con Thiên Chúa mà cũng là mẹ của nhân loại. Mẹ đã chăm sóc để con cái mẹ sống xứng đáng làm con cái của Chúa Cha và là đền thờ của Chúa Thánh Thần[13], đặc biệt là những người con sống đời thánh hiến qua những lời cầu bầu của mẹ. Mẹ Thiên Chúa (Mẹ Của Ngôi Lời) cũng trợ giúp tu sĩ kết hợp mật thiết với Ba Ngôi như chính mẹ nhờ vào đức tin sắt đá, đức cậy vững vàng và đức ái nồng nhiệt để cùng hợp đoàn trên thiên quốc.[14] Mẹ hướng dẫn con cái lắng nghe thánh ý của Thiên Chúa, suy đi nghĩ lại trong lòng, rồi can đảm đáp lại tiếng Chúa mời gọi để hiến thân trọn vẹn. Không những thế, Mẹ còn bảo vệ con cái luôn sống trong ân nghĩa của Ba Ngôi khi kiên vưỡng bước theo Chúa Giêsu Kitô đến giây phút cuối cuộc đời. Là Hiền Mẫu Rất Thánh, Mẹ luôn lắng nghe lời cầu nguyện của con cái và ra sức chuyển cầu để những người thánh hiến luôn sống trong cảm giác bình an thư thái dù có phải đối mặt với muôn vàn thử thách gian truân. Hơn nữa, Mẹ đã đảm bảo ơn cứu độ cho con cái khi đã thực hiện mầu nhiệm cứu độ đã được Ba Ngôi Thiên Chúa tiền định và thực hiện trong mầu nhiệm Nhập Thể trong vai trò Mẹ Đấng Cứu Thế. Đây là việc thực hiện tuyệt vời nhất lời hứa của Thiên Chúa ban cho loài người sau khi tổ tông loài người sa ngã[15].
Đức Maria không những là gương mẫu cho toàn thể Hội Thánh trong sự thực hành việc thờ phượng Thiên Chúa, nhưng Mẹ còn là thầy dạy đời sống tinh thần cho từng người Kitô hữu[16] Trong đời sống tận hiến, Mẹ là người môn đệ đầu tiên chấp nhận hiến mình phục vụ chương trình của Thiên Chúa qua tiếng Fiat, một sự dâng hiến trọn vẹn bản thân. Mẹ xứng đáng là VIRGO OFFERENS, Người trinh nữ hiến dâng[17]. Mẹ là mẫu gương trong việc đáp lại tiếng Chúa Cha mời gọi để thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể. Vì Mẹ cũng chính là VIRGO AUDIENS, Người Trinh Nữ lắng nghe, đón nhận lời Chúa trong đức tin”.[18]  Mặc dù luôn ý thức Thiên Chúa nắm phần chủ động, Mẹ cũng đã ưng thuận để Ngôi Lời xuống thế. Từ đó, Mẹ trở thành“mẫu mực cho việc con người thụ tạo đón tiếp ân sủng của Thiên Chúa”. Trong tương quan sống động với Chúa Ba Ngôi, Mẹ cho các tu sĩ nam nữ thấy được một mẫu gương “cho việc tận hiến cho Chúa Cha, kết hợp với Chúa Con và ngoan ngoãn nghe theo Chúa Thánh Thần”.[19] Chính Mẹ luôn thể hiện một mẫu gương trong việc đi theo Chúa và mẫu gương trong việc thông dự vào mầu nhiệm Vượt Qua. Mẹ đã bước theo Thiên Chúa, cách đặc biệt là trong cuộc đời Chúa Giêsu khi còn ở thế trần. Mẹ đã cùng trải nghiệm cuộc Thương Khó, sầu bi khi ẵm bồng thân mình Chúa Con trong tay, hoan hỉ đón mừng tin vui Phục Sinh, và đầy tràn sức mạnh lãnh nhận Thánh Thần.
Trong đời sống tận hiến, Đức Mẹ là mẫu gương của đời sống khiết tịnh với đặc ân Đồng Trinh Trọn Đời. Mẹ đã giúp soi dẫn các tu sĩ bước đi khiết trinh trong chiều kích hôn ước của đời tận hiến, mặc dù không thể phủ nhận nét riêng dành cho nữ tu sĩ. Chính Đức Mẹ là mẫu gương đặc biệt cho thái độ sống của một người hiền thê. Nếu Giáo hội nhờ Mẹ mà đời sống thần linh được triển nở thì đời tận hiến cũng sinh hoa kết trái do một mối tình khiết trinh và trọn vẹn với Đức Lang Quân[20]. Điều đó nên trọng vẹn cũng bởi vì Đức Maria là VIRGO ORANS, người trinh nữ cầu nguyện[21]. Mẹ đã luôn biết lắng nghe ý Chúa như một vị hiền thê sẵn sàng đón nhận ước muốn của vị hôn phu. Đây cũng là diễn tả sống động mà đời sống tận hiến cần có để diễn tả tình yêu hòa hợp như Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong đời sống thường nhật, Mẹ đã trở nên mẫu gương tuyệt vời trong đức nghèo khó. Mẹ chấp nhận tùy thuộc vào Thiên Chúa, để Ngài làm chủ cả hiện tại, tương lai đời mình. Đón nhận tiếng xin vâng trong vô định, hay rong ruổi tìm con lạc mất, mà không một lời than vãn. Mẹ trải qua những nỗi đau như một con người, chấp nhận sinh con trong hang đá, làm vợ của một bác thợ mộc, lặn lội theo Chúa Giêsu mà không có một nơi để gối đầu. Mẹ đã dâng cả cuộc đời và hơn nữa chấp nhận để kế hoạch của Thiên Chúa Ba Ngôi lên hàng đầu. Mẹ dạy cho con cái làm những người nghèo ở thế gian để chiếm được gia sản trên Thiên Quốc.

Một vài phản tỉnh thay lời kết

Đức Maria quả là mẫu gương và người phù hộ của đời tận hiến,[22] cách riêng trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mẹ đã hướng dẫn tu sĩ nhận ra nguồn gốc đời tận hiến phát xuất từ Thiên Chúa để đáp trả lại lời mời gọi thánh thiêng. Từ đó, Mẹ đồng hành để họ sống trọn vẹn theo ba lời khuyên Phúc Âm đã tuyên khấn để kết hợp mật thiết trong tình yêu Ba Ngôi. Điều này đòi hỏi một đời sống cộng đoàn mẫu mực qua sự huấn luyện đầy đủ và nhất là đón nhận các sứ mạng được giao. Trong đó, Đức Maria là người Mẹ, là thầy dạy và là mô phạm mẫu mực nhất cho mối tương quan giữa đời tận hiến với Thiên Chúa.
Dẫu biết vai trò của Đức Mẹ rất to lớn, quan trọng và dường như có phần hạ thấp khi cố gắng tra cứu về những điều đó, nhưng trung tâm đời sống tận hiến vẫn là Thiên Chúa Ba Ngôi mà đỉnh cao chính là cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu qua mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua. Hiểu được như thế, các tu sĩ cần luôn tâm niệm qua Mẹ đến với Chúa để không làm suy giảm vai trò của Đức Mẹ mà còn xác định chính xác vị trí của Thiên Chúa trong đời tận hiến.

Thư Mục

1.    Enrico Mazza, La celebrazione eucaristica. Genesi del rito e sviluppp dell’enterpretazione, (EDB, Blologna 2003), Vincent Nguyễn Xuân Tuấn dịch, bản việt ngữ: Cử Hành Thánh Thể. Nguồn Gốc Nghi Thức và Sự Phát Triển Trong Cách Giải Thích, Tập 1 (NXB Tôn Giáo, 2016).
2.    Giuse Phan Tấn Thành, op., Magnificat, (Học Viện Đa Minh, 2010).
3.    Judith A. Bauer, Sổ tay Những Điều Cần Biết Về Đức Maria, Trans. Matthias M. Ngọc Đính, CMC. (2004).
4.    Karl Rahner, Maria, kẻ đã tin, (NXB Tôn Giáo, 2004)
5.    Lumen Gentium. Bản việt ngữ: Phân Khoa Thần Học – Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Thánh Công Đồng Chung Vaticanô II, (Đà Lạt, 1972).
6.    Marialis Cultus. Bản dịch của Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh.
7.    Redemptoris Mater.
8.    Thánh Anphong, Vinh Quang Đức Maria, (Tp.HCM : NXB Tôn Giáo, 2006)
9.    Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin – Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, (Hà Nội : NXB Tôn Giáo, 2009).
10.              Vita Consecrata - Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, Lm. Phan Tấn Thành dịch, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2015).

Internet

2.    Pr. Lê Hoàng Nam, SJ., Mẹ Maria – Mẫu gương đời dâng hiến, https://dongten.net/2015/01/05/me-maria-mau-guong-doi-dang-hien/, 22/03/2018.
3.    Đá Nhỏ - Thanh Tuyển FMI, Mẹ Maria, mẫu gương Đời Sống Thánh Hiến, http://conducmevonhiem.org/archives/12031 , 22/03/2018.
4.    Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh, Mẹ Maria và người sống cuộc đời dâng hiến, http://gpbuichu.org/news/Me-Maria/Me-Maria-va-nguoi-song-doi-dang-hien-3339.html , 22/03/2018.



[1] Cuộc Tử Đạo của Thánh Pôlicarpô 15, 2 (Atti e passinoni dei martiri, 24). Enrico Mazza, La celebrazione eucaristica. Genesi del rito e sviluppp dell’enterpretazione, (EDB, Blologna 2003). Vincent Nguyễn Xuân Tuấn dịch bản việt ngữ: Cử Hành Thánh Thể. Nguồn Gốc Nghi Thức và Sự Phát Triển Trong Cách Giải Thích, Tập 1 (NXB Tôn Giáo, 2016), 257.
[2] Vita Consecrata - Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến, Lm. Phan Tấn Thành dịch, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2015), 16.
[3] Ibid, 17.
[4] Ibid, 18.
[5] Ibid, 19.
[6] Ibid, 20-21.
[7] Ibid, 36.
[8] Ibid, 41.
[9] Ibid, 66.
[10] Ibid, 72.
[11] Lumen Gentium, 52-69.
[12] Marialis Cultus, 19
[13] Lumen Gentium 69.
[14] GLHTCG, 1024.
[15] Redemptoris Master, 11.
[16] Marialis Cultus, 21.
[17] Ibid, 20.
[18] Ibid, 19
[19] Vita Consecrata, 28.
[20] Ibid, 34.
[21] Marialis Cultus, 18.
[22] Giuse Phan Tấn Thành, op., Magnificat, (Học Viện Đa Minh, 2010). 289.

Monday, September 10, 2018

Sự tử tế trong 3 chuyện ngược đời


Đôi dép
Chuyến xe lửa đang chạy trên đường cao tốc, Gandhi không cẩn thận làm rơi một chiếc dép mới mua ra ngoài cửa sổ, mọi người chung quanh đều cảm thấy tiếc cho ông.
Bất ngờ, ông liền ném ngay chiếc giày thứ hai ra ngoài cửa sổ đó. Hành động này của Gandhi khiến mọi người sửng sốt, thế là ông bèn từ tốn giải thích: “Chiếc giày này bất luận đắt đỏ như thế nào, đối với tôi mà nói nó đã không còn có ích gì nữa, nếu như có ai có thể nhặt được đôi giày, nói không chừng họ còn có thể mang vừa nó thì sao!”.

Mượn dù
 Một ngày Khổng Tử đi ra ngoài, trời đang mưa nhưng ông lại không có dù. Có người nói:“Tử Hạ có đó, mượn của Tử Hạ đi”.
 Khổng tử nghe xong liền nói: “Không được! Tử Hạ là người keo kiệt. Nếu tôi hỏi mượn mà anh ta không cho, mọi người sẽ nghĩ anh ta không tôn trọng thầy của mình. Còn nếu cho tôi mượn, anh ta chắc chắn sẽ rất đau khổ”

Đậu xe
Tại một tòa cao ốc của Thụy Điển có hơn 2.000 chỗ đậu xe. Mỗi ngày, người đến sớm thường đậu ở nơi cách xa văn phòng hơn.
Có người hỏi: “Các bạn cứ đến văn phòng là đậu xe ở đây sao?”.
Trả lời: “Chúng tôi đến sớm có nhiều thời gian để đi bộ trên đường hơn. Các đồng nghiệp đến muộn sẽ đậu ở gần văn phòng hơn để không phải đi bộ xa và đỡ bị muộn giờ làm”.



Ngẫm nghĩ: Vì người khác mà suy nghĩ, con đường sẽ đi được xa hơn!

From: Tinh Hoa

Friday, September 7, 2018

Thử tìm hiểu Lc 14,1.7-14 và Lc 15,1-32



Lc 14,1.7-14 - Chúa nhật 22 Thường niên - Năm C

1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.

7 Người nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất (prōtoklisias) mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này:8 "Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,9 và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: "Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.10 Trái lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: "Xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

12 Rồi Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: "Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi.13 Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù.14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại."


CÂU HỎI

1. Trong Phúc âm Luca, Đức Giêsu được các ông Pharisêu ba lần mời ăn. Hãy tìm những đoạn đó.

2. Bạn thấy bầu khí của ba bữa ăn đó giữa Đức Giêsu với các ông Pharisêu như thế nào? Nói chung, thái độ của người Pharisêu đối với Đức Giêsu là thái độ nào? Đọc Lc 6,7; 11,53-54; 14,1; 20,20.

3. Trong bài Phúc âm hôm nay, ông Pharisêu này là ai? Ông mời Đức Giêsu ăn vào ngày nào?

4. Động từ nào xuất hiện nhiều nhất trong Lc 14,7-14? Bao nhiêu lần?

5. Tại sao Đức Giêsu dạy Lc 14,8-10? Lời dạy ở đây có phải là một dụ ngôn không? Đây có phải chỉ là những lời khuyên về cách cư xử khôn khéo khi đi ăn tiệc không?

6. Đọc Lc 14,8-11; 20,46. Bạn thấy con người thường nghiêng chiều về điều gì? Bạn có sợ mất mặt không? Tại sao ta cần khiêm tốn tự hạ?

7. Đọc Lc 14,12-14. Đức Giêsu nhắc đến mấy hạng người trong đoạn Phúc âm này? Ngài dạy người đã mời mình bài học gì? Ngài có cấm mời bạn bè không? Bài học này có giống với Lc 6,32-36 không?

8. Phúc âm Luca có thường nói đến người nghèo, người tàn tật không? Đọc Lc 1,53; 4,18; 6,20-22; 7,22. Những người như thế có chỗ trong bàn tiệc Nước Trời không? Đọc Lc 14,15-21; 16,22-23.

9. Tìm hai câu trong bài Phúc âm này nói lên hành động của Thiên Chúa? Ngài hành động khi nào? Tìm một mối phúc quan trọng trong bài Phúc âm này.

10. Chúa Giêsu dạy bạn điều gì khi bạn học bài Phúc âm này?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Ba lần mời ăn. Lc 7,36 (36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình); Lc 11, 37 (37 Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn); Lc 14,1 (1 Một ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng bữa: họ cố dò xét Người.).

2. Bầu khí của bữa ăn khá căng thẳng, tăng dần - mâu thuẩn xảy ra khi đối diện với các hành động của Đức Kitô à tìm cách bắt lỗi Chúa Giêsu.

      a. Người phụ nữ - Chúa Giêsu để người phụ nữ tội lỗi đụng vào mình

      b. Chúa Giêsu không rửa tay trước khi ăn

      c. Cố ý dò xét Chúa

3. Người mời là thủ lảnh của nhóm Pha-ri-sêu – người có chức tước cao, mời trong ngày Sa-bát.

4. Động từ mời (gọi) – 9 lần. Lc, 14. 7 – keklēmenous; 8 – klēthēs, keklēmenos; 9 – kalesas; 10 – klēthēs, keklēkōs; 12 – keklēkoti, antikalesōsin; 13 – kalei.

5. Do quan sát thái độ của khách dự tiệc à dụ ngôn à Không chỉ là lời khuyên

6. Thích được khen (hư danh). Con người thường sợ bị mất mặt. Chúng ta cần khiêm tốn tự hạ vì:

     a. Dễ mến

     b. Nhìn nhận sự thật mình hữu hạn à có thể phạm tội.

     c. Để Chúa nổi bật lên

7. 8 hạng người chia làm 2 nhóm: bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có vs. nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Ngài dạy chúng ta cách thức mời khách khi có đãi tiệc. Chúa không cấm mời bạn bè nhưng không chỉ mời bạn bè mà thôi. Yêu mến thường và yêu mến siêu nhiên.

8. Lc thường nhắc đến người nghèo

      a. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,người giàu có, lại đuổi về tay trắng. 1,53.

      b. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức. 4,18.

      c. 20 Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
21 "Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. "Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.


22 "Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa.23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử như thế. 6,20-22

       d. 22 Người trả lời hai người ấy rằng: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng, 7,22.

Chổ trên nước Trời

       a. 21 "Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng: "Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt vào đây. 14, 21.

       b. 23 "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 16, 23.

9. Lc 14, 11, 14.

         a. 11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên."

         b. 14 Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại."

Mối Phúc: Phúc cho ai giúp người khác mà không được đền đáp, vì Thiên Chúa sẽ đáp đền.

10. Học biết khiêm nhường – nhận ra đúng vị trí của mình.

         a. Học làm điều tốt mà không mang được đáp đền

         b. Học giúp đở mà không cần được cám ơn.



Lc 15,1-32 - Chúa nhật 24 Thường niên – Năm C

1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

4 "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất?5 Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai.6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.

8 "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được?9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."

11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai.12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con.13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu,15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo.16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. ..22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.

25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa,26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì.27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ.29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!

31 "Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."


CÂU HỎI

1. Tìm những điểm chung có trong ba dụ ngôn chiên lạc, đồng bạc bị mất và người cha nhân hậu. Tại sao Đức Giêsu kể ba dụ ngôn này?


2. Kể lại con đường từ hư hỏng đến hoán cải của người con thứ.

3. Người con thứ có hoán cải thực lòng không? Lòng hoán cải của anh có từ từ trở nên trọn vẹn không?

4. Tìm những hành động và lời nói cho thấy người cha tôn trọng và yêu thương tha thứ cho người con thứ.

5. Tìm những hành động và lời nói cho thấy người cha tôn trọng và yêu thương tha thứ cho người con cả.

6. Tìm những nét giống nhau giữa con thứ và con cả.

7. Bạn thấy mình giống người con nào hơn? Trở về với Cha có đòi ta trở về với anh em không?

8. Đọc Lc 15,1-32. Bạn thấy ai là hình ảnh của người Pharisêu và các kinh sư? Đọc Lc 18,9.

9. Đọc dụ ngôn người cha nhân hậu, bạn có gặp thấy những nét quan trọng của Bí Tích Hòa Giải (Giải Tội) không?

10. Đọc Lc 15,1-32. Bạn nghĩ Thiên Chúa của chúng ta ở trên trời là Đấng như thế nào? Chúng ta thường nghĩ Thiên Chúa là Đấng nào? Khi tiếp đón và ăn với người tội lỗi (Lc 15,2), Đức Giêsu đã làm cuộc cách mạng nào?

PHẦN TRẢ LỜI

1. Những điểm chung – chữ chung:

     a. Có - bị mất – tìm thấy – vui mừng (chung vui)

     b. Echōn, echousa, eichen – apolesas, apolesē, apolōlōs – heurē, heurē, heurethē – chara (syncharēte), chara, euphranthōmen (euphrainesthai, charēnai)

Biện minh cho thái độ của Chúa ("Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."). Chúa luôn làm ngược lại với những hành động thông thường của người Do Thái thời xưa à chịu tử nạn. Thiên Chúa cố gắng đi tìm tội nhân cho kì được – heōs.

2. Con đường hư hỏng à hoán cải: xin tài sản (ousias) – được chia tài sản (bion) – thu góp – đi phương xa – sống phóng đãng, phung phí tài sản – ăn tiêu hết sạch – lâm cảnh túng thiếu – đi ở đợ, chăn heo – hồi tâm và tự nhủ (đứng lên đi về cùng cha)

3. Người con có hoán cải thật lòng nhưng chưa hoàn hảo vì nhận ra tội lỗi của anh nhưng chỉ mong cơm dư gạo thừa. Hoán cải từ từ bởi chưa đụng chạm đến tình yêu của người cha à hoán cải chưa trọn; trọn vẹn – nằm trong bàn tay của Cha nhưng không nói dối, vẫn xưng thú tội lỗi của mình.

4. Hành động

      a. Chia gia tài – cho tự do ra đi

      b. Không đi tìm

      c. Chạy ra

      d. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.

Lời nói

"Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”



5. Hành động

     a. Ra - exelthōn

     b. Năn nỉ - parekalei

     c. Chỉnh sửa khéo léo trong lời nói

Lời nói

"Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."



6. Giống nhau giữa hai anh em

    a. Đều là con trai trong gia đình

    b. Phạm lỗi – hỗn

    c. Đi xa nhà – không vào nhà: ngoài nhà.

    d. Xa cha: thể lý – tinh thần

    e. Được chia gia tài

    f. Không nhận mình là con

    g. Đều được tôn trọng, yêu thương, tha thứ đồng thời có một người cha không giận dữ, tiếc của, …

7. Người con cả: không nhận mình là con, ghanh tị, trách mắng người anh em tội lỗi - trở về với cha phải trở về với anh em.

8. Anh cả là là hình ảnh của người Pharisêu và các kinh sư. 9 Đức Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác. 18, 9.

9. Bí tích hòa giải: Xét mình – hồi tâm; Ăn năn tội – Thưa cha, con thật đắc tội …, Xưng tội: Đứng lên (anastas) – đi về (poreusomai), Tha tội: Ôm hôn (tha thứ bằng hành động); Dốc lòng chừa – đền tội.

10. Thiên Chúa giàu lòng thương xót – đau khổ khi con người đi xa khỏi Người. Thông thường, Thiên Chúa là một vị thẩm phán, một người cha nghiêm khắc.

Tham khảo:
http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20160824/35903
https://dongten.net/2016/09/10/hoc-hoi-phuc-am-chua-nhat-24-thuong-nien-nam-c/