Wednesday, April 4, 2018

Tìm Hiểu Tư Tưởng Của Karl Rahner Về Ân Sủng

Trong thực tế của đời sống Thánh Hiến, nhiều người đã chọn câu Lời Chúa: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9) để làm châm ngôn đời mình. Thiết nghĩ khi lựa chọn ơn gọi Thánh Hiến, họ mang trên mình bao khát vọng thánh, bao lý tưởng cao đẹp, nhưng khi trải đời mình trong thực tế với những bản ngã, với những thách đố của xã hội với những trào lưu của cuộc sống, họ đã không ít một lần chơi vơi, lạc lõng giữa dòng chảy thánh của lựa chọn ban đầu. Ẩn mình trong cái sâu thẳm của phận người, họ xác tín hơn vào ân sủng của Thiên Chúa. Trong khi tưởng chừng đã thành công thì lại quỵ ngã, trong lúc tận cùng của đau khổ, người tu sĩ lại thấu cảm được Ân Thiên[1]. Chính khi Chúa vẽ đường thẳng trong những đường cong của phận người, người tu sĩ đã kiên nhẫn và can đảm đáp lại sự thông hiệp của Thiên Chúa cách công khai. Tiếp bước trên đường tận hiến, người tu sĩ lại thêm phần tin tưởng và phó thác trong vui mừng và hy vọng. Thế nhưng ân sủng không chỉ được ban hay chỉ được cảm nhận từ người tu sĩ, mà là ân ban mang tính phổ quát. Nhưng liệu con người có thấu cảm và trãi nghiệm hết ý nghĩa chăng? Có lẻ đối với người Công giáo, một số người có thể thấu hiểu được ý nghĩa như trãi nghiệm thiêng liêng vừa trưng dẫn nhưng đâu đó còn nhiều người chỉ nghe qua rồi bỏ nên đã không thấu hiểu hết được ý nghĩa. Ở Việt Nam, Kitô hữu chỉ chiếm tỉ lệ 10%, vấn đề đặt ra là những người Kitô hữu ẩn danh[2] có thể sẽ được tiếp cận với lời này và kinh nghiệm này nhưng liệu những người anh chị em đó có thể thấu hiểu chăng? Khi đã nghe biết về danh Chúa Giêsu Kitô, anh chị em Kitô hữu ẩn danh có thể chưa đáp lại tiếng Chúa mời gọi để được làm con Chúa, vậy liệu anh chị em đó có được sống trong ân sủng trọn vẹn không? Khi biết về những người chưa nghe biết hay đón nhận Chúa một cách chính thức[3], người Kitô có dám tin tưởng chấp nhận và giải thích rằng mọi người đều là con Chúa và chung phần trong vinh quang Thiên quốc không?  Bài viết này sẽ không tập trung chú giải câu Lời Chúa vừa nêu mà chỉ khởi đi từ trãi nghiệm ân sủng của Thiên Chúa trong đời sống Thánh Hiến cũng như một chút ưu tư về vấn đề nhiều người chưa biết Chúa trong xã hội Việt Nam để có một nổ lực tìm hiểu một vài điểm Ơn – Ân Sủng trong văn hóa và tôn giáo khác ở Việt Nam nhờ tóm kết qua các buổi trao đổi thảo luận (seminars). Hơn nữa, bài viết thể hiện ước mong có thể giải thích ơn công chính hóa của giáo hội Công giáo và một vài trả lời đầy vui mừng và hy vọng cho các vấn đề vừa nêu dưới soi sáng của thần học gia Karl Rahner.
Tội lỗi và ân sủng với hiện hữu trong mọi nền văn hóa và ngôn ngữ.[4] Tục ngữ ca dao Việt Nam ghi nhận ân sủng như là một tình trạng tốt trong các lĩnh vực: kinh tế – Lắm tiền nhiều bạc là tiên trên đời; khôn ngoan – Ba năm ở với người đần, không bằng một lúc đứng gần người khôn; danh giá –  Tốt danh hơn lành áo; tính tình – sống đục sao bằng thác trong; tương quan – Anh em cốt nhục đồng bào, vợ chồng cũng nghĩa lẽ nào chẳng thương. Quan điểm truyền miệng lý giải tình trạng tốt nhờ vào: định mệnh – Trời sinh vui sinh cỏ; Cha mẹ sinh con trời sinh tính; môi trường: Gần lửa rát mặt gần sông sạch mình; nhân quả - Gá bạc làm giầu, bắc cầu làm phúc; Làm việc phi pháp, sự ác đến ngay; Cây khô không lộc, người độc không con. Đồng thời, tác giả dân gian cũng đưa ra những phản ứng và nhận định song song: hy vọng – Thịnh suy có lúc, đối phúc cùng trời; thất vọng: Chết người không chết tật; thưởng phạt: Một lần làm hại, bại hoại cả đời (thuận); Thương người hại khó đến thân (nghịch); khả thể thay đổi: Nhờ phèn thì nước mới trong (thuận); Chính chuyên chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng thân (nghịch). Tục ngữ - ca dao nhìn nhận mọi hiện tượng và đúc kết kinh nghiệm khôn ngoan trong đó có dấu vết của ân sủng nên dễ dàng được lưu truyền trong dân gian, nhưng cách nhìn khá chung chung đến từ hai phía.
Nếu Công giáo ghi nhận ba mối tương quan tổng hòa của con người với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình thì Nho giáo ghi nhận tương quan: Quân – Thần, Phụ - Tử cộng thêm Bằng Hữu. Do đó, ai bẻ gãy các mối tương quan là phạm tội hay đúng hơn nhữn hành vi sai trái (bất Trung – bất Hiếu – bất Tín) sẽ phá vỡ mối dây liên kết trong tương quan. Nho giáo có phần nhấn mạnh đến tội hơn là phúc vì bối cảnh hình thành trong thời chiến quốc, cần thiết lập các mối tương quan rõ ràng để dễ dàng cho việc quản trị. Do đó, Nho giáo nại vào Thiên (bản nguyên của muôn vật có Thiên Mệnh Và Thiên Đạo) để giải thích về phúc đức, bản tính, sinh mệnh, phú quý và cả cứu rỗi khỏi sự khốn khổ. Kinh thư có đoạn: “Trời sinh ra dân chúng, thì tạo nên bậc vua, tạo nên bậc thầy, riêng để giúp Trời. Do đó Thượng Đế yêu mến khác thường các bậc ấy trong bốn phương.” Luận ngữ có câu: “Trời sinh ta vốn người có đức”. Trung Dung ghi nhận:Cái phần của Trời ban cho gọi là tính, tuân theo tính gọi là đạo, sửa theo đạo gọi là giáo.” Nho sĩ lưu truyền: “Sống chết có số mạng, giàu sang do ở Trời.” Kinh Thi lại rằng: ”Đức Thượng Đế rất lớn, soi xuống dưới đất rõ ràng, xem xét bốn phương để tìm sự khốn khổ của dân mà cứu giúp”. Từ đó, tư tưởng Nho giáo mời gọi mọi người sống theo Thiên đạo khi tin có Trời, thờ Trời qua việc bảo tồn tâm, dưỡng dục tính, sống theo đạo nội tâm, giữ lễ, cúng tế đặc biệt theo các nhân đức: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.
Cùng chung trong nền văn hóa, Lão giáo giải thích vạn vật dựa trên nguyên lý tác thành vũ trụ như trong Kinh Dịch: mọi vật phát xuất từ Vô Cực chuyển đến Thái Cực rồi sinh ra Nhị Nguyên. Từ hai nguyên nhân đầu tiên, vũ trụ được điều hòa và phát triển theo quy luật chung của nó. Cũng thế, họa phúc trong cuộc sống khó mà phân biệt được: “Họa dữ phúc đồng môn, lợi dữ hại vi lân, phi thần thánh nhân, mạc chi năng phân.” Vì chúng cùng một ‘cửa’ nên có chăng vị thánh nhân mới có thể phân biệt được. Vị này đạt tới cảnh giới ‘vô vi’ là hành động theo Đạo, theo lẽ tự nhiên. Vậy mà, “Đạo khả đạo phi thường đạo”[5], thì sao có thể thấu triệt? Mặc dù thế, lão giáo vẫn đưa ra ‘lục hại’ thông qua các hành động nên làm: không màng danh lợi, đoạn tuyệt thanh sắc (lời ca, tiếng hát, nhan sắc phụ nữ), coi nhẹ tài vật, gạt bỏ ích kỷ - tư lợi cá nhân, không nói lời xu nịnh – a dua – giả dối, không ghen tức – đố kị; cùng với ba thói xấu: lười biếng, ăn chơi sa đọa, cậy quyền thế. Từ đó, con người có thể đạt đến tình trạng thánh nhân mà dung hòa với đất trời.
Giải thoát trong Ấn giáo hay Niết bàn trong Phật giáo là đỉnh cao của ân sủng mà đời sống con người nhắm đến. Ấn giáo vạch ra những con đường (marga) để được giải thoát: hành tác (karma), minh trí (jnana), cống hiến (bhakti), và thiền định (bhakti). Với quan niệm luân hồi, mỗi người theo Ấn giáo được mời gọi chu toàn những bổn phận ở đời này trong các vị trí khác nhau mà dâng lên cho thượng đế như một cách tạo nghiệp thiện. Kết quả các công việc đời này sẽ được nhìn thấy ở đời sau, mặc dù đôi khi có những hiệu quả hay hậu quả nhãn tiền theo quan niệm nhân quả. Hơn nữa, Ấn hữu[6] cũng có thể hoàn thiện bản chất con người qua sự việc minh trí. Khi con người trở nên hoàn thiện trong tự do nội tâm do sự hiểu biết mang lại thì như đã giác ngộ và sống trong cõi niết bàn (tình trạng tự do tâm trí). Một cách cụ thể, Ấn giáo đưa ra con đường cống hiến (sùng kính) vốn phù hợp vốn tất cả các giai cấp. Chính lòng sùng kính và cường độ lòng sùng kính mà đem lại ân sủng cho người sùng đạo. Ở khía cạnh khác, Ấn hữu sẽ được giải thoát nhờ vào kỉ luật bản thân (yoga).
Vốn xuất phát từ Ấn Giáo, Phật giáo thừa hưởng hầu hết các tư tưởng của Ấn Giáo. Điểm khác biệt là Phật giáo nhấn mạnh về Tứ Diệu Đế như một lý thuyết giải thích khổ (Khổ Đế), ái dục kết hợp lại nguyên nhân khổ (Tập Đế), tiêu diệt khổ (Diệt Đế) và con đường ra khỏi tình trạng khổ (Đạo Đế). Đồng thời, Phật nêu cao Bát Chánh Đạo là tám con đường để giác ngộ (Chánh Tri-kiến, Chánh Tư-duy, Chánh-Ngữ, Chánh-Nghiệp, Chánh-Mạng, Chánh Tinh-tấn, chánh-Niệm, Chánh-Định[7]) mà về cõi niết bàn (thường dành cho những người tiệm ngộ[8]). Như chữ Phật (giác giả - người giác ngộ), Phật tử được mời gọi sống thấu hiểu chính mình và các hiện tượng thế gian để không còn phụ thuộc vào thế gian nữa. Kết quả, họ được vào niết bàn là cõi không còn đau khổ nữa.[9]

Ân sủng tạo dựng

Theo Rahner ân sủng là món quà tự thông hiệp của Thiên Chúa (God’s self-communcation present) cho con người trong thế giới. Ngay từ đầu công trình tạo dựng của Thiên Chúa, con người đã lãnh nhận được ân huệ hiện hữu nhờ Đức Kitô. Trong đó, Rahner cho rằng, con người được phú ban cho ơn hiện hữu siêu nhiên (supernatural existential) hiểu như là “hiện hữu của con người được phú bẩm cho khả năng chấp nhận sự trao ban nhưng không của Thiên Chúa trong việc tự thông tri qua tình yêu” [10]. Hiện hữu siêu nhiên như là quà tặng của Thiên Chúa – khả năng thường tồn của con người trong kinh nghiệm tiếp xúc với Người. Nói khác đi, ân sủng thánh hóa của Thiên Chúa luôn tuôn tràn dù con người có dùng ý chí tự do để đón nhận hay từ khước. Rahner tin rằng Thiên Chúa tự thông hiệp trong Chúa Giêsu Kitô là khởi nguyên và tận cùng của lịch sử con người. Ông đồng ý với thánh Âu-tinh rằng Thiên Chúa tạo dựng nên con người không chỉ cho con người mà hơn nữa cho chính Ngài: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa”(Âu-tinh)[11].
Con người luôn luôn là một hữu thể thụ nhận ân sủng cho nên sự hiện hữu của con người phản ánh chính Đấng ban ơn là Thiên Chúa. Người tự tỏ lộ chính mình cho con người qua và trong Chúa Kitô. Vì thế, nhân tính của Chúa Kitô là Ngôi Lời trong không gian và thời gian (trong lịch sử), và con người là kết quả của sự thông hiệp của Thiên Chúa trong lịch sử. Nói khác đi, Rahner thuyết phục rằng nơi thẳm sâu của hiện hữu con người chính là ân sủng hay thần tính bị che dấu. Bởi vì, ông tin rằng “trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã thông tri chính Người cho chúng ta trong một phương cách tuyệt đối và không thể đảo ngược”[12] và nếu chúng ta tin vào mầu nhiệm Nhập Thể thì chúng ta cần phải hiểu rằng Chúa Giêsu trong chính Ngài là mặc khải của Thiên Chúa. Rahner viết: “con người trong định nghĩa cơ bản nhất là Thiên Chúa tỏ lộ chính Người trong lãnh vực thần linh đặc biệt (extra-divine)”[13]

Ơn công chính hóa

Không những con người là người lãnh nhận chính Chúa mà tự bản chất con người hướng về Thiên Chúa. Nói khác đi, Thiên Chúa không ngừng tỏ lộ chính Ngài cho con người qua Đức Giêsu Kitô một cách cụ thể nơi chính biến cố con Thiên Chúa xuống thế làm người, sống đời trần thế, đặc biệt Thiên Chúa tỏ lộ chính mình qua biến cố Thập Giá (Tử nạn và Phục sinh). Như thế, toàn bộ đời sống của con người được định nghĩa là “gắn chặt với mầu nhiệm tuyệt đối là chính Thiên Chúa”[14].
Mầu nhiệm Nhập Thể là sự thật Thiên Chúa tự hạ (self-empty) trong thân phận con người. Để Ngôi Lời làm Người mà vẫn là Thiên Chúa một cách thật sự và trọn vẹn, nhân tính của Ngôi Lời cần phải thể hiện thiên tính cách thật sự trong chính Người. Nếu không có điều đó thì Ngôi Lời cũng chỉ là một dấu hiệu vốn không thể biểu lộ bản chất thật sự của Thiên Chúa. Rahner nói rằng, trong chính bản chất hiện hữu của mình, con người nhận ra rằng bản tính nhân loại của mình đã được Ngôi Lời Thiên Chúa đảm nhận khi Ngài nhập thể làm người[15]. Chính nhờ Ngôi Lời nhập thể mà con người được trao ban hồng ân tham dự vào đời sống thần linh của Thiên Chúa trong phương cách mới và không thể đảo ngược.
Bởi thế, Rahner khẳng định rằng con người đã vuợt xa đến mức từ bỏ chính mình trong mầu nhiệm tuyệt đối, là chính Thiên Chúa. Ông nói diễn tả điều này khi nói con người được ban cho “khả năng vâng phục (obediental potency)  hướng đến sự kết hiệp với Ba Ngôi”[16]. Nghĩa là, con người trong sự hiện hữu của mình được phú ban cho ân sủng giúp con người có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Nói khác đi, con người được hiểu như là một hữu thể hữu thể có khả siêu vượt chính mình (self-transcendent) hướng về Thiên Chúa. Đây được xem là quá trình tự khám phá bản thân của con người để trở thành chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và nhờ ân sủng thánh hóa Ngài. Do đó, con người tự do không nhất thiết phải có nhiều lựa chọn mà là người khuất phục trước mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô chính là nguồn và là đỉnh điểm mà con người đang theo đuổi.
Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện cách đặc biệt nơi mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, Đấng vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nhờ đó, con người được cứu chuộc khỏi tội lỗi và đạt tới mức độ tròn đầy của hiện hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn cho con người ngay từ đầu. Nói khác đi, nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu mà tiềm năng vâng phục (obediental potency) của con người đạt tới sự trọn đầy.
Dù có ý phân biệt các loại ân sủng nhưng tựu trung, ân sủng chỉ có chung một gốc như thánh Phaolô đã trình bày trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12, 4). Quả thật, vì con người ở mỗi thời đều quá quan trọng vào vật chất, lợi ích và những biểu hiện bên ngoài mà quên đi mất những gì thường tồn bên trong. Nhưng cuối cùng, mỗi người đều ý thức hơn về cuộc sống hay tình trạng sau khi chấm dứt cuộc đời này bởi cái chết. Thật khó để tra vấn về ân sủng mà bỏ qua tội lỗi, chính trong tình trạng tội lỗi, trong những bất cập của cuộc đời mà con người nhận ra được ân sủng cách rõ ràng hơn và ý thức hơn về ơn cứu độ.
Về phần mình, Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu độ từ khởi nguyên và ý muốn cứu độ của Thiên Chúa đã được thể hiện cách đặc biệt nơi mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, Đấng vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nhờ đó, con người được cứu chuộc khỏi tội lỗi và đạt tới mức độ tròn đầy của hiện hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn cho con người ngay từ đầu. Nói khác đi, nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu mà tiềm năng vâng phục (obediental potency) của con người đạt tới sự trọn đầy. Như thế, ân sủng hay ơn cứu độ cũng chỉ là một, có khác chăng là cách hiểu ân sủng mang tính phổ quát còn ơn cứu độ như là hiệu quả của ân sủng khi nhấn đến sự công chính hóa. Bởi lẻ, khi cố gắng phân biệt ơn tạo dựng và ơn công chính hóa theo Karl Rahner, ân sủng cũng vẫn chỉ là một.
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLTHCG)[17] định nghĩa “sự công chính hóa bao hàm sự tha thứ tội lỗi, sự thánh hóa và sự canh tân con người nội tâm” (Số 2019). Do đó, khi tra vấn về công chính hóa, chúng ta không chỉ nên dừng lại ở khía cạnh tha thứ tội lỗi và sự thánh hóa mà còn sự canh tân con người nội tâm hay ngược lại, chỉ nhắc đến nội tâm mà không đề cập đến sự trợ giúp của Thiên Chúa. Quả thế, con người đã được ơn công chính hóa nhờ Đức Kitô đã chết cho muôn người được sống bởi “sự công chính hoá là công trạng nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô cho chúng ta” (GLHTCG số 2020) . Con người sẽ lạc xa chính mình khi quá đề cao ‘công trạng’ của mình nhờ vào tự do, lề luật, ý chí như là ‘sức khỏe’ để phân biệt phải trái (theo tư tưởng phái Pêlagiô hay một vài tôn giáo coi trọng hành tác). Ngược lại, con người sẽ chẳng là gì vì tất cả đều do đức tin, do ân sủng Thiên Chúa ban cho. Như thế, có phải con người đã bị hạ thấp trong cách nhìn chỉ có ân sủng, chỉ có đức tin, chỉ có Kinh Thánh (theo phái Thệ Phản)? Có phần tương tự, Công giáo nhìn nhận sự đáp trả của con người cũng khởi phát từ chính Thánh Thần, nguồn thông ban mọi ân sủng của Thiên Chúa bởi chính Ngài “đem lại cho chúng ta sự công chính của Thiên Chúa” (GLHTCG số 2017).  Thật ra, Giáo hội Công giáo giúp con người nhận ra thân phận yếu đuối, mỏng giòn, dễ rơi vào tình trạng tội lỗi của phận người. Nhưng trong chính trong sự thông hiểu đó, con người nhận ra được chính mình để sẳn sàng “xin vâng”. Công trạng của con người chỉ đến từ sự thụ động chấp nhận ân ban mà còn tự do ‘xin vâng’ chấp nhận ân sủng của Thiên Chúa[18]. Vì thế, có thể khẳng định hành động của con người tuy nhỏ bé nhưng trong sự công tác với ân sủng trong Đức tin, con người được công chính hóa.
Thánh Âu-tinh cho rằng: ân sủng trước hết diễn tả tương quan giữa con người (kẻ thụ ơn) và Thiên Chúa (Đấng ban ơn). Con người được sống trong tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ân sủng của Thiên Chúa Cha, ân sủng của Đức Kitô và nhờ đức ái do Chúa Thánh Thánh Thần ban cho. Do đó, Hội Thánh Công Giáo ghi nhận “ân sủng là sự trợ giúp Thiên Chúa ban cho chúng ta, để chúng ta đáp lại lời kêu gọi là trở thành nghĩa tử của Ngài” (GLHTCG số 2021). Vì thế, ân sủng không mâu thuẩn với tự do mà ngược lại “ân sủng của Thiên Chúa và tự do của con nguời hiện hữu và “cùng hoạt động” trong bản tính con người”[19]Chính trong công trình của ân sủng, Thiên Chúa luôn đi bước trước để chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả tự do của con người. Hiệu quả của ân sủng là đáp ứng những khát vọng sâu xa của sự tự do của con người. Hơn nữa, ân sủng kêu gọi sự tự do cộng tác với mình, đồng thời kiện toàn sự tự do đó. (GLHTCG số 2022). Chúng ta nên phân biệt giữa tự do – không phải là quyền chọn lựa : nó là tình yêu dành cho điều thiện ; đó là tình trạng của ý chí hướng về sự thiện đích thực, tức là Thiên Chúa [20] và ý chí tự do – quyền lựa chọn, làm trung gian cho tự do.[21]
Rahner cho rằng con người luôn sống trong tình trạng ân sủng được Thiên Chúa trao ban dù con người chấp nhận hay từ chối. Thiên Chúa ôm ấp tất cả nhân loại và không có sự loại trừ. Vì thế, con người khi cấu thành hữu thể có tự do chấp nhận hay chối bỏ thiên hướng vốn là quà tặng yêu thương của Thiên Chúa. Thế nhưng, Thiên Chúa luôn muốn trở thành trung tâm sâu thẳm nhất của sự hiện hữu trong ân sủng nhưng không và trong sự tự thông hiệp.[22] Do đó, tự do vốn ngự trị trong trái tim của con người là sức mạnh để chính con người ra quyết định và hiện tại hóa chính mình[23]. Đây là khả năng lớn lên qua các quyết định đáp lại tình yêu nhờ khả năng vâng phục nhờ vào ý chí tự do. Tự do vốn luôn tồn tại theo thời gian qua những thay đổi đa dạng của thực tế vì thế con nguời cũng sẽ thường tồn theo chính bản chất đặt để trong chúng ta nếu biết dùng tình yêu đáp đền tình yêu nhờ ân sủng.[24]
Thiên Chúa đã tự thông hiệp chính mình trong tự do và trong sự tha thứ. Điều này được chấp nhận như là một quà của Thiên Chúa và chỉ có thể được hiểu như là ân sủng. Ân sủng diễn ra một cách tất yếu và chỉ có thể tồn tại như là sự chuyển đổi tự do hướng về Thiên Chúa.[25] Do có, con người chỉ thật sự tự do khi quyết định siêu vượt chính mình khi hướng về Đấng Sáng Tạo. Nhất là, qua ân sủng, mỗi người chung chia trong sự thánh thiện của Thiên Chúa.[26] Ân sủng hiện thân chính mình thông qua các sự kiện ngày lại ngày của con người. Bởi thế, trong hành động yêu thương người khác, mỗi người được tái sinh (reborn) và trở thành một người mới.

Tạm kết

 “Cứu cánh của con người chính là Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa có thể ban cho con người phương tiện để kết nối với Ngài”[27] Phải chăng Thiên Chúa đã ban cho Hội Thánh phương tiện qua các bí tích, đặc biệt là bí tích Thanh Tẩy như là phương tiện duy nhất? Điều này đã là một vấn đề gây hiểu lầm và tranh cải bên ngoài và bên trong giáo hội. Trong trãi nghiệm mục vụ, nhiều vị tu sĩ trẻ đã phân vân và ngạc nhiên khi còn nhiều người Kitô hữu chính thức tin rằng ơn cứu độ chỉ dành cho người đã chịu phép rửa. Họ đã rất đau khổ khi biết con cái họ hay những người thân quen chưa chịu phép rửa sẽ không được ơn sủng trọn vẹn, nhất là được cứu độ. Nhìn nhận điều này, Karl Rahner mời gọi những người tín hữu nhìn nhận người chưa được rửa tội như là các Kitô hữu ẩn danh (anonymous Christians). Ông dùng thuật nghữ “mặc khải siêu nghiệm” như ân sủng minh chứng ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được bao hàm trong sự tự thông hiệp.[28] Mặc khải này đề cập đến kinh nghiệm về Thiên Chúa có thể xảy ra bất nơi đâu và cho bất cứ ai như là tính phổ quát của nó. Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho tất cả mọi người dù là tín hữu (believers) hay vô tín hữu (unbelievers). Sự khác biệt hay mâu thuẩn mang “tính tuyệt đối” (categorical) giữa trong và ngoài Kitô giáo đã được giải quyết theo nghĩa siêu vượt (transcended). Điều này diễn ra là nhờ vào mặc khải siêu nghiệm, được hiểu như là phương thức tự thông hiệp của Thiên Chúa đến với tất cả mọi người là những hữu thể siêu vượt (transcendent beings) mang trong mình phẩm tính siêu nghiệm. Trong kinh nghiệm về Đức Tin Kitô giáo, chúng ta tri nhận ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa với công trình của Chúa Giêsu Kitô qua mầu nhiệm nhập thể - cuộc đời – khổ nạn – chịu chết – phục sinh của Người. Lẻ dĩ nhiên, ơn cứu độ phổ quát với lòng thương xót vô hạn của Người không thể bị giới hạn ở những ai được gọi là Kitô hữu chính thức qua việc thuộc về giáo hội, qua bí tích rửa tội, qua việc tuyên xưng đức tin, hay qua các nghi thức tế lễ mà còn lan rộng đến các Kitô hữu ẩn danh vốn được nhìn nhận từ trong thực tế hiện hữu nội tâm của họ.[29] Quả thật, mỗi hữu thể tồn tại đều có tự do dùng lời “xin vâng” để đáp lại Lời Chúa qua mặc khải và đức tin một cách công khai hay bí mật.
Tin tưởng như thế, người Kitô hữu sẳn sàng tiếp cận với những chưa được gọi là Kitô chính thức trong niềm tin của họ để cùng nhau đối thoại. Ví như, trong những câu tục ngữ ca dao vốn đã ăn sâu vào trong tâm thức những người dân Việt, người Kitô hữu có thể nhận ra được ân sủng của Thiên Chúa trong những quan niệm sống thực tế thường nhật. Cũng thế, trong triết lý của Nho – Lão, Kitô hữu nhận ra một hiện hữu huyền nhiệm bên trong tư tưởng Thiên với Thiên Mệnh, Thiên Đạo hay lẽ tự nhiên của đất trời. Hơn nữa, trong vi diệu của Ấn – Phật, Kitô hữu đón nhận đời sống tu tập thực tế, hủy mình ra không mà hướng về cõi phúc, Niết Bàn. Có lẻ, chúng ta sẽ quá vội vàng khi ghi nhận những điểm chính yếu của những hệ thống tư tưởng vốn vượt qua phương diện lý thuyết mà ăn sâu vào nền văn hóa nhưng trong nổ lực nhỏ bé chúng ta sẽ từng bước hội nhập văn hoá. Chúng ta sẽ không hòa tan khi dùng chính những thuật ngữ của các tư tưởng để diễn tả cách nhìn của Công giáo. Chúng ta cũng không thể cứng nhắc, bó hẹp trong những cách hiểu thần học công giáo. Tựu trung, chúng ta sẽ sẵn sàng thống nhất một quan điểm chung rồi giải thích chúng theo cách hiểu riêng biệt. Ước mong, ân sủng đức Ái vốn trỗi vượt hơn những ơn tiên tri, hay thông thạo các ngôn ngữ sẽ dẫn đưa những người Kitô hữu chính danh hay ẩn danh vào trong Ân sủng của Thiên Chúa.



1.    Dr. Marilyn Sunderman, Grace and Lived Christianity in the Theology of Karl Rahner and Leonardo Boff, International Journal of Humanities and Social Science Vol. 1 No. 8; July 2011.
2.    Karl Rahner. The Content of Faith. Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006).
3.    Karl Rahner, Grace in Freedom, (New York: Herder and Herder, 1969).
4.    Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984).
5.    Karl Rahner, "Religious Enthusiasm and the Experience of Grace," Theological Investigations 16 (Baltimore, Md.: Helicon Press, 1979).
6.    Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984).
7.    Karl Rahner, Foundation of Christian Faith: An Introduction to the Idea of Christianity (New York: The Crossroad Publishing Company, 2005).
8.    Karl Rahner, The Theological Investigations. Volume IV, Trans. Kevin Smyth, (New York: CrossRoad, 1982).
9.    Karl Rahner, Theological Investigations: Vol. XVI Experience of the Spirit: Source of Theology, trans. David Morland O.S.B. (NewYork: The Crossroad Publishing Company, 1983).
10.      Karl Rahner, Faith in a Wintry Season, 161, quoted in Harvey D. Egan, S.J., The Mystic of Everyday Life, (New York: Crossroad Publishing Co, 1998).
11.     Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2009).
12.     Lý Minh Tuấn, Lão Tử - Đạo Đức Kinh Giải Luận, (HCM: NXB Phương Đông, 2010).
13.     Lý Minh Tuấn, Đông Phương Triết Học Cương Yếu, (HCM: NXB Hồng Đức, 2014).
14.     V. Grossi – B. Sesboue, Nguyên Tội Ân Sủng và Sự Công Chính Hóa – Bản dịch Nguyễn Tiến Dưng, AA. (Lưu Hành Nội Bộ).



[1] Ân Sủng của Thiên Chúa
[2] Theo nhìn nhận của Karl Rahner: Anonymous Christian là Kitô hữu ẩn danh (vô danh), người chưa là Kitô hữu qua bí tích rửa tội vẫn sống trong ân sủng và được ơn cứu độ.
[3] Lãnh nhận Bí Tích Rửa Tôị.
[4] V. Grossi – B. Sesboue, Nguyên Tội Ân Sủng và Sự Công Chính Hóa – Bản dịch Nguyễn Tiến Dưng, AA, (Lưu Hành Nội Bộ), 174.
[5]Thực tại tối hậu có thể giải bày chẳng phải Thực tại tối hậu thường hằng”. Lý Minh Tuấn, Lão Tử - Đạo Đức Kinh Giải Luận, (HCM: NXB Phương Đông, 2010), 13-14.
[6] Người tin và theo Ấn Giáo
[7] Lý Minh Tuấn, Đông Phương Triết Học Cương Yếu, (HCM: NXB Hồng Đức, 2014), 526.
[8] Giác ngộ từ từ theo thời gian – khác với Đốn ngộ là giác ngộ ngay lập tức (chỉ ghi nhận một mình trường hợp Lục Tổ Huệ Năng)
[9] Lý Minh Tuấn, Đông Phương Triết Học Cương Yếu, (HCM: NXB Hồng Đức, 2014), 487.
[10] Dr. Marilyn Sunderman, Grace and Lived Christianity in the Theology of Karl Rahner and Leonardo Boff, International Journal of Humanities and Social Science Vol. 1 No. 8; July 2011, 1.   
[11] He [God] creates the human reality by the very fact that he assumes it as his own”. Karl Rahner, Foundation of Christian Faith: An Introduction to the Idea of Christianity (New York: The Crossroad Publishing Company, 2005), 222.
[12] Karl Rahner, Faith in a Wintry Season, 161, quoted in Harvey D. Egan, S.J., The Mystic of Everyday Life, (New York: Crossroad Publishing Co, 1998), 33.
[13] Karl Rahner, Theological Investigations: Vol. VI Concerning Vatican Council II, trans. Karl-H. and Boniface Kruger (Baltimore, MD: Helicon Press Inc, 1969), 393.
[14] “That man is insofar as he abandons himself to the absolute mystery whom we call God.” Karl Rahner, Theological Investigations: Vol. XVI Experience of the Spirit: Source of Theology, trans. David Morland O.S.B., (NewYork: The Crossroad Publishing Company, 1983), 218.
[15] Karl Rahner, Foundation of Christian Faith: An Introduction to the Idea of Christianity (New York: The Crossroad Publishing Company, 2005), 222-223.
[16] “obediental potency for the hypostatic union.” Ibid.
[17] Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2009).
[18] Karl Rahner, The Theological Investigations. Volume IV, Trans. Kevin Smyth, (New York: CrossRoad, 1982). 206.
[19] V. Grossi – B. Sesboue, op.cit. 357.
[20] V. Grossi – B. Sesboue, op.cit. 243.
[21] Ibid. 244.
[22] Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984), 12.
[23] Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984), 38.
[24] Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984), 96.
[25] Karl Rahner, Grace in Freedom, (New York: Herder and Herder, 1969), 231
[26] Karl Rahner, "Religious Enthusiasm and the Experience of Grace," Theological Investigations 16 (Baltimore, Md.: Helicon Press, 1979), 40
[27] V. Grossi – B. Sesboue, Nguyên Tội Ân Sủng và Sự Công Chính Hóa – Bản dịch Nguyễn Tiến Dưng, AA, (Lưu Hành Nội Bộ), 356
[28] Karl Rahner, The Content of Faith, Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006). 592.
[29] Ibid., 593.