Con người là một hữu thể có
tính xã hội, cần cộng đoàn để hiện hữu và phát triển (giáo dục, chỉ dạy, giúp đở).
Con người có quyền được xã hội giúp đỡ và có bổn phận góp phần giúp đỡ xã hội.
Không có con người nào, mà không là người đời, dù là tu sĩ hay
linh mục, giám mục. Mọi người đều sinh ra ở đời, gắn bó với đời, hiện hữu ở đời.
Đảo ngược lại để nhìn cuộc đời, thì ta cũng nhận thấy đời đích thực phải là đời
người. Đời phải có bộ mặt người, xã hội phải có bộ mặt người. Nếu xã hội không
có bộ mặt người đúng nghĩa thì xã hội không còn là xã hội con người mà là địa
ngục trần gian.[1]
Nghĩa
rộng: Xã hội là một sự liên kết bền vững nhiều người nhằm theo đuổi một mục tiêu chung do bản tính đòi hỏi hay do ý chí muốn (bản tính đòi hỏi
– Tất yếu: gia đình, bộ tộc hay
quốc gia; ý muốn – Thứ yếu: hội tôn
giáo, hội giáo dục, công ty cổ phần, các câu lạc bộ, …).
Nghĩa
hẹp: xã hội là
một sự liên kết bền vững nhiều
ngưòi nhằm giúp nhau đạt được những mục tiêu hiện sinh của mình.
Cộng
đoàn: chỉ những hội qui tụ những ngưòi quan tâm đặc biệt đến sự phát triển nội
bộ của tập thể (gia đình).
Xã hội: các hội
có đặc điểm như tổ chức
cách hệ thống và có
những cơ cấu bên ngoài (quốc gia).
GLHTCG 1879: Con người cần đến đời sống xã hội. Đời sống này không
phải là một cái gì thêm vào nhưng là một đòi hỏi của bản tính con người. Nhờ
trao đổi với người khác, nhờ phục vụ lẫn nhau và nhờ đối thoại với anh em, con
người phát triển các tiềm năng; nhờ đó họ đáp trả lại ơn gọi làm người.
GLHTCG 1880. Xã hội là một cộng đồng vừa hữu hình, vừa
thiêng liêng, tồn tại trong thời gian; tiếp nhận quá khứ và chuẩn bị tương lai.
Mỗi người đều là thừa tự, nhưng phải đóng góp cho cộng đồng mà mình là thành
viên, và phải tôn trọng các người cầm quyền có trách nhiệm mưu cầu công ích.
GLHTCG 1881. Mỗi cộng đồng được định nghĩa bởi mục đích
của nó; do đó phải tuân theo những quy luật đặc thù, nhưng nhân vị chính là và
phải là nguyên lý, là chủ thể và là cứu cánh của mọi tổ chức xã hội.
2.
Công
ích
Công ích
là những điều tốt và những giá trị mà xã hội sẽ dựa vào để giúp các thành
viên của mình thực hiện các nhiệm vụ;
những nhiệm vụ ấy một mình họ không thể nào chu toàn được.
VaticanII. Công ích là lợi ích của tất cả mọi người;
công ích “bao gồm toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội nhờ đó con người,
gia đình và xã hội có thể đạt tới sự hoàn thiện riêng của mình một cách thỏa
đáng và dễ dàng hơn” (GS 74).
Docat 87. Mục tiêu của cá nhân là thực hiện điều tốt.
Mục tiêu của xã hội là công ích. Công
ích – điều tốt cho mọi người + cho toàn thể một con người.
HTXH[2]
164. Công ích là khía cạnh xã hội và cộng động của luân lý.
GLHTCG 1906. Công ích liên quan đến đời sống của mọi người. Nó đòi hỏi mỗi người
phải khôn ngoan, nhất là những ai đang cầm quyền.
Vai trò: (1) đẩy mạnh và tạo điều kiện để có một cuộc sống
nhân bản toàn diện cho các thành viên của mình; (2) ngăn chặn những xung lực phản xã hội, nằm nơi bán tính con người, không
để chúng, can thiệp vào quyền lợi của người khác và vào trật tự xã hội.
à Giúp con
người thi hành các nhiệm vụ và thực hiện các mục tiêu hiện sinh của mình (hổ trợ
và bổ sung) à con người
không bao giờ là phương tiện thuần tuý để đạt công ích.
Ích lợi của một cộng đoàn càng có liên hệ chặt
chẽ vói các nhiệm vụ cơ bản, các mục tiêu hiện sinh của con người, ta càng có bổn
phận tôn trọng và phát huy ích lợi ấy.
Docat 87. Công
ích – đòi hỏi những tiêu chuẩn về một trật tự pháp lý theo quy định của một nhà
nước nhà nước pháp quyền + quan tâm duy trì các phương tiện tự nhiên để sinh tồn.
Các xã
hội: (1) phải để cho các nhóm hay cá nhân làm những gì họ có thể làm được dựa vào năng tực của
mình; (2) phải giúp các nhóm hay cá nhãn
khi họ không có thể chu toàn một nhiệm vụ thiết yếu hay ít ra hữu ích nào đó.
Nguyên
tắc bổ trợ[3]: luật
thu hẹp à giới hạn cho sự can thiệp của xã hội; bảo vệ quyền lợi
và thẩm quyền: cá nhân trước xã hội (thống trị thái quá), hiệp hội nhỏ trước xã
hội lớn hơn (yêu sách áp bức và chuyên chế); chống lại sự toàn quyền của các tổ
chức, các quốc gia.
Bổ trợ:
xã hội lớn có bổn phận và thẩm quyền “trợ cấp” và giúp đỡ các nhóm nhỏ, các cá
nhân à giúp họ chu toàn các nhiệm vụ và nghĩa vụ thiết yếu
và quan trọng (tự thân họ không thể chu toàn: bất lực).
Giúp đở
bao nhiêu? Tùy theo khả năng của các thành viên (ý chí và nghị lực). Giúp đở
quá lớn – quyền hành mở rộng, xã hội phải chứng minh hợp tình hợp lý. Ngược lại,
xã hội phải lập tức giảm sự can thiệp và giúp đở xuống, ngay khi có thể và tới
mức có thể. Con người hay tập thể bên dưới cũng được đòi buộc tự chu toàn các
nhiệm vụ.
Tầm ảnh
hưởng trên người cầm quyền và các xã hội nhỏ, cá nhân: Khi còn khả năng thì cá nhân
trách nhiệm lấy, khi cần
thiết thì xã
hội can thiệp vào. Một mặt, giới cầm quyền có bổn phận phải tôn trọng các giới
hạn do chức năng bổ trợ của mình đặt ra. Nhưng mặt khác, các thành phần trong mỗi
xã hội đều có quyền và có cá bổn phận sử đụng khả năng của mình cách tích cực để
chu toàn trách nhiệm
Chú ý: không có sự hoàn hảo tuyệt đối nên: dưới
– không đặt ra cho xã hội những yẽu sách và chờ đợi thái quá (giới hạn tất yếu).
GLHTCG
1912. Công
ích luôn hướng tới việc thăng tiến con người
Docat 97.
Chúng ta
không thể cứ đẩy những vấn đề về đời sống chung cho ‘các cấp cao hơn’ à Kitô hữu
được kêu gọi tham gia tích cực vào xã hội, và không loại trừ một ai
Nếu không muốn một cộng đoàn bị xé nát ra khi mỗi
người một ý, thì cần phải có một quyền
bính" (GS 74). Tuy nhiên, lạm dụng quyền bính cần được
xem xét và giải quyết phù hợp à dân
chủ hóa xã hội (mọi người có tiếng nói nhiều hơn trong việc bổ nhiệm các
viên chức và trong việc cai quản xã hội).
Augere à Auctoritas (Quyền
hành – quyền bính): gia tăng, giàu lên à quyền bính là một định chế có
nhiệm vụ làm giàu lên và phát triển những ngưòi sống dưới ánh hưỏng cúa quyền
bính ấy (sứ mạng đích thực).
Quyền bính là thế trổi vượt của một người, nhờ đó đuơng sự có đủ tư cách để đưa ra những
đòi hỏi cho người khác vì ích lợi riêng của họ hay vì ích lợi của xã hôi à quyền
bính do bản thân (dựa trên sự trổi vượt của
người ấy về trí tuệ, nghề nghiệp, tâm linh hay đạo đức) và quyền bính do chức
vụ (một người có được do đang thi hành một
chức vụ điều khiển hay quản trị mà xã hội đã trao ban).
Docat 203. Quyền
lãnh đạo của một người được hợp thức hóa bởi nhân dân.
Thiên
Chúa: quyền bính, chủ quyền tuyệt đối, bắt nguồn quyền bính và phục vụ Người
(con người được trao quyền).
Thi
hành quyền bính với tinh thần phục vụ, có suy nghĩ và thiện ý (chồng yêu thương
– không đay nghiến vợ; cha mẹ đối xử khôn ngoan – không chọc giận con cái; người
lớn chăm sóc người dưới[4]).
Mẫu mực là lòng yêu thương quên mình mà Đức
Kitô đã dành cho mọi người, đặc
biệt cho Giáo hội.
Mỗi
người có khả năng khác nhau à phục vụ công ích, phục
vục mục tiêu cao cả của Thiên
Chúa, vinh quang
và chủ quyền của Người: thông chia
kiến thức và khả năng à quyền hướng dẫn và huấn
luyện.
Quyền bính
cũng là một yếu tố quan trọng làm nên xã hội. Con
người cần một quyền bính lãnh đạo và phối hợp à phục vụ mục tiêu
chung. Quyền bính dựa vào bản tính con người để trở thành một
yếu tố cơ bản làm nên xã hội. Nền tảng nền tảng và nguồn góc cuối cùng của quyền bính cũng phải là
Thiên Chúa.
Vai trò quyền bính: giúp con người đạt tới sự trưởng thành và làm người trọn vẹn, để can
thiệp cho con người được trỏ nên hoàn hảo, để phát huy các giá trị cúa cá nhân
và xã hội; phục vụ công ích = đảm bảo sự trật tự, tạo điều kiện thuận lợi.
Hai vai trò cơ bản:
(1)
Giáo dục: quyền bính sẽ giúp
con ngưòi đạt tới sự trưởng thành cá nhân; can thiệp và hướng dẫn cấp dưới à chu toàn
nghĩa vụ: cách độc lập và trách nhiệm; phục vụ cộng đoàn: cách đáng tín nhiệm. Can
thiệp bằng biện pháp giáo dục: cưỡng bách giáo dục hay sử dụng các biện pháp
ngăn ngừa sự nghiện ngập.
(2)
Phối hợp (thi hành): bảo vệ
trật tự trong xã hội - phối hợp các lực lượng đang theo đuổi những mục
tiêu chung à sự thống
nhất.
Docat 202. Các nền dân chủ đương đại không còn đặt nền
tảng trên nỗ lực trung tín với Thiên Chúa và với giao ước của Ngài à trung lập
về tôn giáo. Nhà nước: chống lại chủ nghĩa tương đối.
Bề trên: không thống trị mà phục
vụ (như Đức Kitô) à bề dưới: không
phải chỉ là những dụng cụ cho họ đạt được mục tiêu, nhưng là những cộng sự viên
cùng chịu trách nhiệm trước mặt Chúa, cũng được mời gọi tham gia vào việc xúc
tiến kế hoạch sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa.
Người lãnh đạo: không mưu cầu
tư lợi à lợi ích
chung, lợi ích người dưới. Lỗi phạm: bao biện, độc tài; bỏ bê không sử dụng quyền
bính ở mức cần thiết (Xuề xòa dễ dãi và
lười biếng hay bất tài và cảm thấy không thích hợp).
Phạm vi: ích lợi của cộng đoàn
cho phép, giới hạn: luật pháp, hiến pháp và mục tiêu của cộng đoàn.
Bề trên: tận dụng tối đa những
đóng góp của bề dưới đối với sự thịnh vượng chung; đừng dập tắt những
sáng kiến cá nhân; phải đẩy mạnh những
sáng kiến ấy như một cách làm giàu và làm phong phú cộng đoàn.
Docat 206. Thẩm quyền ràng buộc tối cao chính là lương
tâm của mỗi người.
Docat
207. Đức Giêsu
chưa bao giờ cho phép mình bị lôi kéo về chính trị.
Docat 208. Người đã không đến để cai trị,
mà để phục vụ
Vâng
phục: audire – nghe à sẵn sàng lắng nghe người khác bày
tó ý muốn và thực hiện; (nhân đức) sự mau mắn của ý chí trong việc thi hành mệnh lệnh do một ngưòi cảm quyền đưa ra.
Mặt trái, vâng phục bị
coi: trở
ngại cho ta đạt được sự độc lập, tự tin và sáng tạo; cản trở bước đường tiến tới sự trưởng thành của con người[5].
Sự vâng phục à cùng quyết định.
Vâng
phục Thiên Chúa: thái độ tôn giáo căn bản, đáp lại
quyền lợi cúa "Đấng Thánh” và là sự tùng phục
chính đáng đối với ý muốn của Chúa à phụng
sự Thiên Chúa, đạt được sự cứu độ và được hiệp thông. Vâng phục Thiên Chúa: vô điều kiện; vâng phục loài
nguời: có điều kiện, hợp tình hợp lý ~ phù hợp với ý muốn của Chúa.
Cựu Ước:
đạo của sự tùng phục những mạc khải của Chúa, qua lề luật và qua các ngôn sứ". Bất tuân = yếu tính của tội; yêu mến Chúa = yêu mến
lề luật (lương tâm, bộ lề luật (Torah), luật lễ nghi và dân sự Israen); Thờ phượng
Chúa đích thực = vâng phục
Người à ơn cứu độ. Ngoài ra, vâng phục cha mẹ cũng là nghĩa vụ,
tuy nhiên ưu tiên vâng phục Thiên Chúa.
Tân Ước:
đức vâng phục một vị trí căn bản trong nền luân lý; đức tin và đức ái – tương quan với Thiên Chúa. Vâng phục của Đức Kitô: chu
toàn ý Cha trong cuộc Thương Khó; nhập thể theo ý Đấng sai đi; chỉ sống vâng phục
trong trần gian à Vâng Phục Thiên Chúa:
bằng chứng lòng yêu mến và điều kiện đầu tiên để được
cứu độ. Thực hành: thi hành ý Chúa qua ý người lãnh đạo (đại diện Chúa): vợ phục tùng chồng[6]; con cái phải vâng phục cha mẹ; tôi tớ phải phục tùng chủ; người trẻ phải vâng phục người lớn trong
cộng đoàn; công dân phải tùng phục chính quyền.
“Phải vâng lời Thiên Chúa hơn con người"
Vâng phục: cương quyết thực hiện ý muốn của
Chúa trong mọi sự, như Kinh thánh thường
dạy (tự bản tính); nền tảng của tất cả mọi nhân đức luân lý và vâng phục
là một điều luôn luôn tốt xét về mặt luân lý à làm
sao để biết được ý muốn của Thiên Chúa (Thiên Ý)? à quyền
bính nhân loại[7]
Giá trị: phát triển nhân cách (tính giáo dục)
và phục vụ cộng đoàn (chức năng)
Giáo dục: Con ngưòi cần sự giúp đỡ và hướng dẫn của
người khác để đạt tới sự trưởng thành luân lý, trí tuệ và tâm
linh, nhờ đó có được khả năng để đáp ứng các yêu cầu của cộng
đoàn, phục vụ cộng đoàn một cách hữu
ích và trở thành
thành viên có giá trị à con người có bổn phận sống vâng phục.
Chức năng: để bảo đảm cho các phần tử được yên ổn, cũng như để thi
hành các nhiệm vụ của cộng đoàn cho
hữu hiệu à các nỗ lực của mọi
thành phần trong xã hội được thống nhất,
phối hợp và tập trung vào mục tiêu chung à góp phản tôn vinh Chúa nhiều hơn, phát triển kế hoạch
sáng tạo của Người và thiết lập Nước Chúa à chính
Thiên Chúa muốn,
cũng như quyền bính nào cũng xuất
phát từ ý muốn của Thiên Chúa vậy.
Tự do đích thực: được giải thoát khỏi sự tự ái thái quá, là xả thân hết mình cho ích lợi của cộng đoàn, là phục vụ
những mục tiêu chung không bị cản trở bởi những lợi ích ngược lại.
Vâng phục không phải chí lá bỏ ý riêng của mình, cũng không phải chí là thi hành
máy móc một công tác bề trên giao cho.
Vâng phục với ý thức trách nhiệm,
thi hành với tất cả sự quan tâm và dấn thân. Trách nhiệm: phục vụ các mục tiêu Chúa muốn; (nhân đức) trong thâm tâm mình ta thấy sự vâng phục ấy là đúng, là tốt. Cộng
tác: vâng phục tự nguyện và hợp tác; một
việc phục vụ thật sự cho công tác chung.
GLHTCG
1900. Bổn phận
vâng phục đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền bính cho xứng hợp; và đối với
những người đang thực thi nhiệm vụ, phải tôn trọng và tùy công trạng của họ mà
tỏ lòng biết ơn và quý mến.
Docat 47. Ngôi vị diễn tả sự thật rằng mỗi người có một phẩm giá
bất khả xâm phạm.
Docat 48. Một người chỉ có thể sống sót và phát triển
nhờ vào sự giúp đỡ của những ngưới khác.
Docat 84. Ngoài nguyên tắc công ích và bổ trợ như đã trình bày,
Giáo hội còn có nguyên tắc phẩm giá của con người (nhân vị) và nguyên tắc liên
đới.
Docat 100. Nguyên tắc liên đới diễn tả chiều kích xã hôị của
con người, không ai sống cho riêng mình, mà luôn dựa vào người khác, …
Docat 89. Thiên Chúa đã dựng
nên thế giới cho mọi loài. Với sự giúp đỡ của con người, trái đất sản sinh của
cải và mùa màng à thuộc lợi ích chung.
Docat 90. Có quyền tư hữu – quyền có tài sản riêng.
Docat 91. Quyền tư hữu
không bao giờ được xem như tuyệt đối.
Docat 220. Giáo hội ủng hộ chế độ dân chủ # đồng ý mọi quyết định
xã hội dân chủ đưa ra.
Docat 221. Giáo hội đứng
tách riêng khỏi mọi hình thức tổ chức chính trị trong lĩnh vực phê phán.
1. Nhân vị: Rerum Novarum (6, 14, 21); Pacem in Terris (6, 8, 65,
75); Gaudium et Spes (10); Populorum Progressio (11, 15, 23): Centesimus Annus
(12, 25)
2. Các
nguyên tắc: Rerum Novarum (11, 12,
28); Centesimus Annus (15, 49, 59); Evangelium Vitae (12); Caritas in Veritate
(6, 7); Evangelii Gaudium (67, 189)
3. Quyền
lực và luân lý: Rerum Novarum (6, 13,
27); Pacem in Terris (30, 39); Centesimus Annus (25)
II. Sách và bài viết
Gm. Nguyễn Thái Hợp. Một cái nhìn về Giáo huấn Xã hội Công Giáo. (Tp. HCM: NXB Phương
Đông, 2010)
Ủy ban Giáo lý Đức tin – HĐGMVN (dịch). Docat: Phải làm gì? Học thuyết xã hội của
Giáo hội Công giáo. (Vietnam: NXB Tôn giáo, 2017).
Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin – Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam. Sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo.
(Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2009).
Phaolô Bùi Văn Đọc. Xây
Dựng Xã Hội Công Bằng Theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo. http://catechesis.net/index.php/than-hoc/giao-huan-giao-hoi-ve-xa-hoi/943-xay-dung-xa-hoi-cong-bang-theo-hoc-thuyet-xa-hoi-cong-giao
. Truy cập 09/08/2018.
[1] Phaolô Bùi Văn Đọc. Xây
Dựng Xã Hội Công Bằng Theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo. http://catechesis.net/index.php/than-hoc/giao-huan-giao-hoi-ve-xa-hoi/943-xay-dung-xa-hoi-cong-bang-theo-hoc-thuyet-xa-hoi-cong-giao
. Truy cập 09/08/2018.
[3] "Nếu quả là sai lầm khi lôi những gì mà các xí nghiệp
tư nhân có thể làm
đuợc để giao cho một tập thể, thì cũng thật là bất công, xấu
xa và xáo trộn khi một xã hội lớn hơn, cao cấp hơn giành lấy những gỉ
mà các xã hội nhỏ hơn có thể làm được. Đây là một nguyên tắc cơ ban của triết học
xã hội " (Quadragesimo Anno (Năm thứ 40). số 79)
[4] Cách nhìn trong giới hạn xã hội thời Tân Ước – cộng đoàn Kitô sơ khai
[5] Sự vâng phục rất thường bị coi là một điều xấu, chứ không phải là
nhân đức. Nói cách khác, người ta vẫn cho rằng nếu không vâng phục thì không thể
giáo dục và tố chức đời sống xã hội. Nhưng người ta muốn giam sự vâng phục ấy tới
mức tối thiểu, lây cớ rằng mục tiêu của con người là làm sao có khả năng tự quyết
càng nhiều càng tốt. Theo quan điểm đó, ta chỉ có thể đạt được lý tưởng này khi
biến sự vâng phục thành một điều gì đó hết sức phụ thuộc". 106.
[6] Cần xem xét lại trong cách nhìn đương đại về tương quan vợ chồng.
[7] "Là một hữu thể ưa trưyền thông, con người chỉ có thể hoàn
thành chính mình qua những quan hệ cá nhân của mình với đồng loại. Vì là một
người trong nhân loại, con người sẽ phải lệ thuộc nhân loại và phải vâng phục
nhân loại bao
lâu thấy các mệnh lệnh của họ phục vụ cho sự thịnh vượng của cộng đoàn và cá nhân, bởi chưng đó chính là mức độ các mệnh lệnh của nhân loaị phản ảnh ý muốn của Chúa". 100
lâu thấy các mệnh lệnh của họ phục vụ cho sự thịnh vượng của cộng đoàn và cá nhân, bởi chưng đó chính là mức độ các mệnh lệnh của nhân loaị phản ảnh ý muốn của Chúa". 100