Tuesday, November 27, 2018

Bối Cảnh Nhân Học Bí Tích Thống Hối - Giao Hòa

Nhân học hướng thần hay nhân học Kitô giáo (Christian Anthropology) xuất hiện như là câu trả lời của Giáo hội Công giáo cho các chủ nghĩa nhân bản vô thần. Thuật ngữ này nói đến quan niệm về con người dưới lăng kính Kitô giáo.[1] Trong đó, vấn đề tục hóa hiểu như là “hậu quả của sự chia cắt kinh tế, xã hội, chính trị với khuôn mẫu tôn giáo, một khuôn mẫu làm nảy sinh chính cách thức thực hành xã hội, chính trị và kinh tế này[2] Phải chăng con người đã và đang đánh mất đi chính căn tính (tôn giáo) của mình sống trong tình trạng khủng hoảng? Hay con người thời nay đánh mất đi giá trị siêu thăng của mình khi mất đi cảm thức tội lỗi? Đây không chỉ là vấn đề của nhân học nhưng còn là vấn đề của bí tích, đặc biệt là bí tích thống hối và giao hòa. Vì thực tế, nhiều Kitô không còn thiết tha trở về cùng Thiên Chúa qua bí tích Thống hối – Giao hòa. Mặt khác, Giáo hội không giới hạn mình trong hệ thống tội-phạt, hối-cứu như bản tóm hành trình của dân Do Thái trong Cựu ước, hay hình thức giá biểu từng được áp dụng để rồi bị xem là giới hạn trong luật bởi các chuẩn mực luân lý. Bài viết tập trung nhìn nhận về Bí tích Thống Hối và Giao Hòa qua việc trình bày tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc Tế (ITC)[3] về bối cảnh nhân học[4] của bí tích này để nói lên tầm quan trọng của bí tích Thống hối – Giao hòa trong việc tiếp cận với các nền văn hóa đa dạng. Qua đó, tìm ra câu trả lời cho xã hội khủng hoảng khi con người chỉ được xem là thuần vật chất và đậm tính thực dụng.
Khởi đi từ bản chất của bí tích giao hòa dưới quan điểm của nhân học, lỗi phạm và tội lỗi, giao hòa và thống hối được tìm thấy trong mỗi người, trong mỗi nền văn hóa và tôn giáo và trong cả quá trình lịch sử. Điểm đáng ghi nhận là sự giao hòa được trao ban bởi chính Thiên Chúa nhằm mục đích biến đổi và thanh tẩy con người. Do đó, thống hối và giao hòa vừa là ân sủng của Thiên Chúa vừa là sự hồi đáp của con người, vừa là quà tặng của Thiên Chúa vừa là một hành vi nhân linh (actus humanus). Chính trong sự hội nhất thần tính và nhân tính mà cần thêm vào yếu tố nhân học cũng như các yếu tố kinh tế, xã hội, tâm lý và tâm linh (ITC A.I.1). Việc mất đi cảm thức đức tin đã diễn ra trong cuộc khủng hoảng về cách hiểu cũng như thực hành thống hối khi loại bỏ và không đặt trọng tâm vào tín lý, nguyên tắc cũng như chi tiết về các vấn đề mục vụ. Điều này khiến chúng ta cần nhìn lại vấn đề trong nội bộ Giáo hội để tìm ra nguyên nhân. Phải chăng việc thực hành trong Giáo hội không còn phù hợp với những vấn đề đang diễn ra trong xã hội? Một trong những vấn đề cần quan tâm là cuộc cách mạng xã hội Tây phương ảnh hưởng lên con người hiện đại khiến họ không còn nhận ra lỗi phạm hay tội lỗi trong đời. Chúng không còn được hiểu là nguyên nhân chính yếu mà chỉ là điều gì đó thứ yếu phát xuất từ tự nhiên, văn hóa, xã hội, lịch sử, hoàn cảnh hay vô minh (unconscious) và trở thành một lý tưởng hay ảo tưởng. Do đó, lương tâm bị suy yếu và xã hội tục hóa ngày một lớn mạnh hơn khi loại bỏ sự ảnh hưởng của Kitô giáo cách riêng và tôn giáo cách chung (ITC A.I.2). Sự đổi mới của nhân học về bí tích Thống hối cần bắt đầu từ việc đổi mới nhân sinh quan về con người đậm tính tôn giáo và luân lý. Bởi lẻ, từ căn tính, con người có tự do và biết hối lỗi; con người không chỉ là một đối tượng tâm lý, kinh tế, xã hội và văn hóa vô danh mà còn là một chủ thể tự do và có trách nhiệm. Khi lỗi phạm và tội lỗi không còn được tri nhận thì con người hiện hữu bị đe dọa. (ITC A.I.3). Căn tính vô điều kiện của con người là tương quan với Thiên Chúa, là giống Ngài, và đi vào tương giao với Thiên Chúa qua ân sủng. Chỉ trong tương giao với Thiên Chúa con người mới tìm ra được câu trả lời cho tra vấn trong nội tại sâu thẳm của mỗi người. Do đó, thức tỉnh căn tính con người là sự đổi mới bắt đầu từ việc trở về với Thiên Chúa và đổi mới cộng đoàn với Ngài. Đây chính là sự siêu thăng của con người. (ITC A.I.4). Tiếp đến, về khía cạnh nhân học của bí tích Thống hối, con người tự nhiên có bản chất liên kết với thân xác. Điều này phụ thuộc vào tình trạng thể lý, kinh tế, xã hội, văn hóa và tâm lý. Hơn nữa, lỗi phạm và tội lỗi thể hiện trong hệ thống và cấu trúc do con người và xã hội tạo ra. Ngược lại, chính cấu trúc mời gọi con người sa ngã và phạm tội, tựu trung trong ý nghĩa tương đồng thường được gọi là ‘cấu trúc tội” hay “tội hệ thống”. Dù theo nghĩa chặt chỉ có con người tự mình phạm tội nhưng không thể phủ nhận chính cấu trúc cấu thành tội và tạo điều kiện cho tội xảy ra. Do đó, cần có có sự thay đổi cấu trúc để tạo tiền đề cho sự hoán cải cá nhân để dẫn dến sự hòa giải. Cách cụ thể là loại bỏ những cấu trúc tà ác để con người ít bị phụ thuộc bởi vị trí và trách nhiệm được xã hội giao phó, hay thoát ra khỏi sự bách hại mà được tái sinh qua sự thống hối. Như thế, việc xưng tội và thống hối cần được xem xét trong chiều kích thể xác lẫn thế giới để có một cuộc biến đổi hoàn toàn trở về cùng Thiên Chúa. (ITC A.II.1). Khía cạnh cá thể và xã hội cần được xem xét cân bằng trong con người. Bởi lẽ, hoán cải trở về cùng Thiên Chúa cũng là hoán cải trở về cùng anh chị em. Chỉ ai cảm nghiệm được tình yêu thì mới có thể mến Chúa yêu người. Do đó, bí tích Thống hối không chỉ đơn thuần là thái độ riêng tư hay nội tâm sâu thẳm mà còn được nhìn nhận dưới khía cạnh xã hội. Đây cũng là điểm quan trọng về khía cạnh công chính hóa mang tính giáo hội và bí tích của bí tích Thống hối. (ITC A.II.2). Khía cạnh thời gian và lịch sử cũng được nhấn mạnh như là điều kiện để nhận ra sự hiện hữu của con người. Căn tính con người được tìm thấy khi thú nhận quá khứ tội lỗi và mở ra cho một tương lai mới. Con người đứng thẳng lên để đến với Chúa và anh chị em khi trút bỏ sự tự kỷ đang đè nén khiến con người phải cong lưng, cúi mình. Chính trong sự soi sáng nhân học mà bí tích Thống hối thể hiện rõ hơn cấu trúc đối thoại và được tri nhận trong thực hành. (ITC A.II.3). Giá trị của sự hối cải khi thống hối và xưng thú tội lỗi là con người đụng chạm vào bí mật sâu thẳm nhất của mình, cũng là bí mật của Thiên Chúa. Chính lúc đó niềm hy vọng của con người được đổ tràn trong ý nghĩa tuyệt đối và trong sự giao hòa mang tính cánh chung của thế giới vốn được mặc khải qua Chúa Giêsu Kitô. (ITC A.II.4).
Nhìn lại vấn đề, chủ nghĩa nhân bản vô thần dường như đi ngược lại với những gì mà nhân học Kitô giáo nhìn về con người. Cách cụ thể, chủ nghĩa này loại bỏ Thiên Chúa, nhìn con người chỉ thuần vật chất qua giá trị sử dụng dẫn đến thái độ thực dụng đến lối sống dững dưng. Đối diện với vấn đề này, Karl Rahner đã nhận định tôi sống trong một cộng đoàn không chỉ dựa trên những gì là căn bản cho đời sống vật chất, nhưng còn dựa trên đời sống thiêng liêng”[5]. Cũng vậy, Giáo hội không phủ nhận những giá trị vật chất của con người nhưng đề cập đến giá trị thiêng liêng. Nếu thuần vật chất thì con người có khác chi con vật, khác chi các cỗ máy di động? Liệu con người có thể sống mà không có các mối tương quan với nhau trong thái độ dững dưng không? Điều này không chỉ là quan tâm của Kitô giáo mà còn là bận tâm của các tôn giáo khác. Vì thế, các giá trị căn bản của con người, mà cách riêng là tội lỗi và ân sủng, phạm tội và thống hối, trở thành tiếng nói chung của tôn giáo khi đối mặt với khủng hoảng xã hội ngày càng khiến con người chỉ quan tâm chu toàn các bổn phận và trách nhiệm mà xã hội đã quy định, ý thức vì luật. Sống đạo tại tâm, tôn trọng các giá trị nhân văn, xem ra rất phù hợp với xã hội và con người hiện đại khi cố gắng loại bỏ yếu tố thần linh mà chỉ quan tâm những giá trị có thể cân đo đong đếm được. Khi đó, con người biết thống hối và muốn biến đổi để tìm sự giao hòa nhưng giao hòa với ai, cội nguồn linh thánh để thật sự hàn gắn các mối tương quan là gì? Phải chăng con người khi đó lại lạc lõng, lại mãi đi tìm một chốn an nghỉ thật sự nào đó?
Tạm kết, bí tích Thống hối – Giao hòa giúp con người trở về với Thiên Chúa để kết hợp với Ngài, hiệp thông với anh chị em và sống trong sự an nhiên nội tâm (GLHTCG 1468-70). Qua đó, con người chấp nhận ‘luật tiệm tiến’ để nổ lực sống tốt hơn, ý nghĩa hơn, toàn vẹn hơn khi mỗi ngày trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa đặt để trong tâm hồn mỗi người. Cuối cùng, con người được tha thứ và sẵn sàng tha thứ cho nhau để hướng về sự tha thứ và hạnh phúc viên mãn cánh chung.



[1] Henri-Jérôme Gagey. Nhân Học Kitô Giáo. Lm. Fx. Nguyễn Tiến Dưng, AA trans. (Lưu hành nội bộ). 5.
[2] Ibid. 220.
[3] Viết tắt ITC = International Theological Commission. Penance and Reconciliation. (Rome, 1982).
[4] Anthropological Context of Penance.
[5] Henri-Jérôme Gagey. Op.cit. 16.