1. Ân sủng tạo dựng
Theo Rahner ân sủng là món quà tự thông hiệp của Thiên Chúa (God’s self-communcation present) cho con người trong thế giới. Ngay từ đầu công trình tạo dựng của Thiên Chúa, con người đã lãnh nhận được ân huệ hiện hữu nhờ Đức Kitô. Trong đó, Rahner cho rằng, con người được phú ban cho ơn hiện hữu siêu nhiên (supernatural existential) hiểu như là “hiện hữu của con người được phú bẩm cho khả năng chấp nhận sự trao ban nhưng không của Thiên Chúa trong việc tự thông tri qua tình yêu” [1]. Hiện hữu siêu nhiên như là quà tặng của Thiên Chúa – khả năng thường tồn của con người trong kinh nghiệm tiếp xúc với Người. Nói khác đi, con người có tự do để đón nhận hay từ khước ơn thánh hóa của Thiên Chúa.
Rahner tin rằng Thiên Chúa tự tỏ lộ trong Chúa Giêsu Kitô là khởi nguyên và tận cùng của lịch sử con người. Ông đồng ý với thánh Âu-tinh rằng Thiên Chúa tạo dựng nên con người khi chỉ cho con người mà hơn nữa cho chính Ngài: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa”(Âu-tinh)[2].
Con người luôn luôn là một hữu thể thụ nhận ân sủng cho nên sự hiện hữu của con người phản ánh chính Đấng ban ơn là Thiên Chúa. Người tự tỏ lộ chính mình cho con người qua và trong Chúa Kitô. Vì thế, nhân tính của Chúa Kitô là Ngôi Lời trong không gian và thời gian (trong lịch sử), và con người là kết quả của sự tỏ lộ của Thiên Chúa trong lịch sử. Nói khác đi, Rahner thuyết phục rằng nơi thẳm sâu của hiện hữu con người chính là ân sủng hay thần tính bị che dấu. Bởi vì, ông tin rằng “trong Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã thông tri chính Người cho chúng ta trong một phương cách tuyệt đối và không thể đảo ngược”[3] và nếu chúng ta tin vào mầu nhiệm Nhập Thể thì chúng ta cần phải hiểu rằng Chúa Giêsu trong chính Ngài là mặc khải của Thiên Chúa. Rahner viết: “con người trong định nghĩa cơ bản nhất là Thiên Chúa tỏ lộ chính Người trong lãnh vực thần linh đặc biệt (extra-divine)”[4]
2. Ơn công chính hóa
Không những con người là người lãnh nhận chính Chúa mà tự bản chất con người hướng về Thiên Chúa. Nói khác đi, Thiên Chúa không ngừng tỏ lộ chính Ngài cho con người qua Đức Giêsu Kitô cách và cụ thể nơi chính biến cố con Thiên Chúa xuống thế làm người, sống đời trần thế, cách đặc biệt Thiên Chúa tỏ lộ chính mình qua biến cố Thập Giá (Tử nạn và Phục sinh). Như thế, toàn bộ đời sống của con người được định nghĩa là “gắn chặt với mầu nhiệm tuyệt đối là chính Thiên Chúa”[5].
Mầu nhiệm Nhập Thể là sự thật Thiên Chúa tự hạ (self-empty) trong thân phận con người. Để Ngôi Lời làm Người mà vẫn là Thiên Chúa một cách thật sự và trọn vẹn, nhân tính của Ngôi Lời cần phải thể hiện thiên tính cách thật sự trong chính Người. Nếu không có điều đó thì Ngôi Lời cũng chỉ là một dấu hiệu vốn không thể biểu lộ bản chất thật sự của Thiên Chúa. Rahner nói rằng, trong chính bản chất hiện hữu của mình, con người nhận ra rằng bản tính nhân loại của mình đã được Ngôi Lời Thiên Chúa đảm nhận khi Ngài nhập thể làm người[6]. Chính nhờ Ngôi Lời nhập thể mà con người được trao ban hồng ân tham dự vào đời sống thần linh của Thiên Chúa trong phương cách mới và không thể đảo ngược.
Bởi thế, Rahner khẳng định rằng con người đã vuợt xa đến mức từ bỏ chính mình trong mầu nhiệm tuyệt đối, là chính Thiên Chúa. Ông nói diễn tả điều này khi nói con người được ban cho “khả năng vâng phục (obediental potency) hướng đến sự kết hiệp với Ba Ngôi”[7]. Nghĩa là, con người trong sự hiện hữu của mình được phú ban cho ân sủng giúp con người có thể kết hiệp với Thiên Chúa. Nói khác đi, con người được hiểu như là một hữu thể hữu thể có khả siêu vượt chính mình (self-transcendent) hướng về Thiên Chúa. Đây được xem là quá trình tự khám phá bản thân của con người để trở thành chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và nhờ ân sủng thánh hóa Ngài. Do đó, con người tự do không nhất thiết phải có nhiều lựa chọn mà là người khuất phục trước mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô chính là nguồn và là đỉnh điểm mà con người đang theo đuổi.
Ý muốn cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện cách đặc biệt nơi mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, Đấng vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết. Nhờ đó, con người được cứu chuộc khỏi tội lỗi và đạt tới mức độ tròn đầy của hiện hữu trong kế hoạch của Thiên Chúa muốn cho con người ngay từ đầu. Nói khác đi, nhờ sự vâng phục của Đức Giêsu mà tiềm năng vâng phục (obediental potency) của con người đạt tới sự trọn đầy.
3. Tự do sống trong ân sủng
Rahner cho rằng con người luôn sống trong tình trạng ân sủng được Thiên Chúa trao ban dù con người chấp nhận hay từ chối. Thiên Chúa ôm ấp tất cả nhân loại mà không có sự loại trừ nào cả. Vì thế, con người khi cấu thành hữu thể có tự do chấp nhận hay chối bỏ thiên hướng vốn là quà tặng yêu thương của Thiên Chúa. Thế nhưng, Thiên Chúa luôn muốn trở thành trung tâm sâu thẳm nhất của sự hiện hữu trong ân sủng nhưng không và trong sự tự thông tri.[8]
Tự do vốn ngự trị trong trái tim của con người là ‘sức mạnh để chính con người ra quyết định và hiện tại hóa chính mình’[9]. Đây là khả năng lớn lên qua các quyết định đáp lại tình yêu nhờ khả năng vâng phục. Tự do vốn luôn tồn tại theo thời gian qua những thay đổi đa dạng của thực tế vì thế con nguời cũng sẽ thường tồn theo chính bản chất đặt để trong chúng ta nếu biết dùng tình yêu đáp đền tình yêu nhờ ân sủng[10]
Thiên Chúa đã hành động tự do của qua việc tự thông tri chính mình. Điều này được chấp nhận như là một quà của Thiên Chúa và chỉ có thể được hiểu như là ân sủng. Ân sủng diễn ra một cách tất yếu và chỉ có thể tồn tại như là sự chuyển đổi tự do hướng về Thiên Chúa”[11] Do có, con người chỉ thật sự tự do khi quyết định siêu vượt chính mình khi hướng về Đấng Sáng Tạo. Nhất là, qua ân sủng, mỗi người chung chia trong sự thánh thiện của Thiên Chúa.[12] Ân sủng hiện thân chính mình các sự kiện ngày qua ngày của con người. Bởi thế, trong hành động yêu thương người khác, mỗi người được tái sinh (reborn) và trở thành một người mới.
Tóm Lược Tư Tưởng Của Karl Rahner Về Tội Lỗi Và Ân Sủng
Tội lỗi
|
Ân sủng
|
- con người bị chi phối bởi một tình trạng tội lỗi (state of sinfulness) hay tội nguyên tổ
- bản tính con người bị thương tổn, bị đe dọa bởi tội và cái chết
- trong mỗi quyết định tự do của mình, luôn bị giằng co giữa hai chọn lựa
- tội nguyên tổ không ảnh hưởng đến ý muốn cứu độ của Thiên Chúa
- con người liên đới với nhau trong tội
- quá khứ tội lỗi của con người thôi thúc họ thêm phó thác vào Thiên Chúa và hướng về tương lai với niềm hi vọng
|
- con người đã lãnh nhận được ân huệ hiện hữu nhờ Đức Kitô, và qui hướng về Đức Kitô
- nơi thẳm sâu của hiện hữu con người chính là ân sủng hay thần tính bị che dấu
- con người có ý chí tự do để đón nhận hay từ khước ơn thánh hóa của Thiên Chúa.
- toàn bộ đời sống con người “gắn chặt với mầu nhiệm tuyệt đối là chính Thiên Chúa”
- con người liên đới với nhau trong ân sủng
- con người được ban cho “khả năng vâng phục (obediental potency) hướng đến sự kết hiệp với Ba Ngôi”
|
[1] Dr. Marilyn Sunderman, Grace and Lived Christianity in the Theology of Karl Rahner and Leonardo Boff, International Journal of Humanities and Social Science Vol. 1 No. 8; July 2011. 1.
[2] “He [God] creates the human reality by the very fact that he assumes it as his own”. Karl Rahner, Foundation of Christian Faith: An Introduction to the Idea of Christianity (New York: The Crossroad Publishing Company, 2005), 222.
[3] “in Jesus Christ God has communicated himself to us in an absolute and irreversible way”. Karl Rahner, Faith in a Wintry Season, 161, quoted in Harvey D. Egan, S.J., The Mystic of Everyday Life, (New York: Crossroad Publishing Co, 1998), 33.
[4] “Man is accordingly in the most basic definition that which God becomes if he sets out to show himself in the region of the extra-divine.” Karl Rahner, Theological Investigations: Vol. VI Concerning Vatican Council II, trans. Karl-H. and Boniface Kruger (Baltimore, MD: Helicon Press Inc, 1969), 393.
[5] “That man is insofar as he abandons himself to the absolute mystery whom we call God.” Karl Rahner, Theological Investigations: Vol. XVI Experience of the Spirit: Source of Theology, trans. David Morland O.S.B. (NewYork: The Crossroad Publishing Company, 1983), 218.
[6] Karl Rahner, Foundation of Christian Faith: An Introduction to the Idea of Christianity (New York: The Crossroad Publishing Company, 2005),., 222-223.
[7] “obediental potency for the hypostatic union.” Ibid.
[8] Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984), 12.
[9] Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984), 38.
[10] Karl Rahner, Foundations of Christian Faith, trans. William V. Dych (New York: Crossroad, 1984), 96.
[11] Karl Rahner, Grace in Freedom, (New York: Herder and Herder, 1969), 231
[12] Karl Rahner, "Religious Enthusiasm and the Experience of Grace," Theological Investigations 16 (Baltimore, Md.: Helicon Press, 1979), 40
No comments:
Post a Comment