Tra vấn trong nội dung bí tích Rửa tội, trường hợp “trẻ em chết khi chưa được Rửa tội” được đưa ra như là một vấn đề
nan giải. Bởi lẽ, chính trong nền tảng Thánh Kinh đã không minh nhiên giải đáp
cho cụ thể cho số phận của các em. Thế nhưng, qua các đề cập mặc nhiên, Thánh
Kinh xác tín hai điểm: a/ nhờ Đức Kitô,
Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người; b/ sự cần thiết của Bí tích Rửa tội để
được cứu độ[1].
Do đó, nỗ lực dung hòa giữa hai điểm này sẽ hé lộ ra số phận của trẻ em chết
chưa được rửa tội. Một cách cụ thể, Uỷ Ban Thần Học Quốc tế đã trình bày những
suy tư thần học đã có nỗ lực tra vấn trong tài liệu “The
Hope of Salvation for infants who die without being baptised” (Niềm
Hy Vọng Cứu Độ cho những trẻ em chết chưa được rửa tội). Bài viết này sẽ tập trung ghi nhận quan điểm của Ủy
ban trong phần 3.1. The new context – một bối cảnh mới trong các số 70-79 qua việc
tái trình bày nội dung chính để đưa ra một vài bình luận về tài liệu cũng như một
nỗ lực phản tỉnh thần học cá nhân dưới sự soi sáng của Karl Rahner.
Tài liệu đưa ra thế giằng co giữa hai quan điểm: “Thiên
Chúa muốn cứu độ mọi người và sự cần thiết của Bí tích Rửa Tội để được Ơn Cứu Độ”[2]
qua chiều dài lịch sử như một bức họa
tranh tối tranh sáng. Do đó, cách tra vấn khôn ngoan là dựa vào hướng dẫn của
Chúa Thánh Thần nhằm diễn tả một nỗ lực suy tư thần học về vấn đề này (CTI[3]
70). Dưới ánh sáng Vui Mừng và Hy Vọng
của Công đồng Vatican II, thần học được mời gọi nhận ra dấu chỉ thời đại dưới
ánh sáng Lời Chúa: “để
chân lý mạc khải luôn được nhận thức, được thấu triệt, và được
trình bày cách thích hợp hơn” (GS 44). Bởi lẽ, thế giới đã ghi nhận một Chúa Giêsu lịch sử chịu
đau khổ, chịu chết và sống lại với mục đích dành cho Giáo hội cũng chính là
thân mình Chúa Kitô. Nên khi thấu hiếu các dấu chỉ thời đại thì cũng chính là
lúc Giáo hội thấm nhuần sâu sắc hơn sứ điệp cứu độ được tín thác cho chính
mình. Đây cũng là cơ hội để đổi mới sự quan tâm đến các khía cạnh đặc biệt của
Lời Chúa nhằm tìm ra những nội dung quan tâm mới trong ngàn năm thứ ba (CTI 71).
Điểm chính yếu về bối cảnh mới, trên bình diện thế giới, sự xuất hiện hàng loạt
các Liên hiệp với mục đích thống nhất giữa các quốc gia để cùng mưu cầu hòa
bình và hiệp nhất nhằm thoát khỏi tình trạng chiến tranh và hỗn loạn xã hội.
Trên bình diện cá nhân, sự cám dỗ về việc đắm chìm trong sự tuyệt vọng đang bao
trùm trên nhiều người. Khi niềm hy vọng dường như không còn xuất hiện trong đời
sống tục hóa thì Giáo hội nhận thức sâu sắc hơn về niềm hy vọng vốn là trung
tâm Kinh Thánh Kitô giáo như trích thư thánh Phaolô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để
chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4,4). Vui Mừng và Hy Vọng không chỉ là Hiến
Chế về đời sống Giáo hội mà còn là lời mời gọi cho các Kitô hữu để trở nên những
chứng nhân cũng như là khí cụ niềm hy vọng trong thế giới (Xx. LG 48; GS 1). Trong
lĩnh vực truyền thông, khoảng cách không gian xem ra không còn là giới hạn để mọi
người có thể tri nhận những khổ đau trên thế giới vốn được phổ bày một cách
sinh động và chân thực. Vì thế, Giáo hội nhìn nhận trọng tâm của bố thí hay
công tác thiện nguyện như là cơ hội để thông hiểu tình yêu, lòng thương xót và
cảm thông của Thiên Chúa một cách sâu sắc hơn. Qua đó, chúng ta học biết tin tưởng
và ca ngợi hồng ân Thiên Chúa như ngôn từ của Thánh Phaolô: “Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng
đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay
nghĩ tới” (Ep 3,20). Cũng từ trong Kinh Thánh, Giáo hội nhận ra những khả
thể của trẻ em vốn được Chúa Giêsu yêu quý: để
các em đến với Người (Mt 19,14; Xx. Lk 15,15-16); các em như là hiện thân của
Người (Mk 9,37); nên như trẻ nhỏ để hưởng phúc Nước Trời (Mt 18,3); nước Trời hứa
ban cho những ai giống các em (Mt 18,4); không để trẻ em bị tổn hại (Mt 18,6); các
em có đại diện là các thiên thần (Mt 18,10). Do đó, Giáo hội đổi mới lời cam kết
để thể hiện tình yêu và sự quan tâm của chính Chúa Kitô dành cho trẻ em (Xx. LG
11; GS 48,50). Cuối cùng, đối thoại liên tôn và hội nhập văn hóa giúp hẹp khoảng
cách giữa các tôn giáo và các nền văn hóa. Từ đó, Giáo hội được khích lệ để
luôn tập trung chú ý về những nẻo đường huyền nhiệm của Thiên Chúa cũng như của
chính Giáo hội. (CTI 72-76).
Một lần nữa, trong tinh thần Vui Mừng và Hy Vọng, hoạt động
của Chúa Thánh Thần trong thế giới ‘theo cách thế mà chỉ có Chúa biết”
(GS 22) được đặc biệt quan tâm chú ý. Nhờ vào ân sủng của Chúa Thánh Thần, Giáo
hội được thông hiểu hơn về mạc khải của Thiên Chúa để làm sáng tỏ hơn vấn đề
đang được tra vấn, đặc biệt trong một bối cảnh với nhiều yếu tố mới vừa được
trình bày. Trong đó, niềm hy vọng là nội dung bao trọn tất cả phần phản tỉnh và
trình bày. Từ đó, Giáo hội đổi mới niềm hy vọng nhằm đáp trả lại những dấu chỉ
thời đại, cách đặc biệt là vấn đề của trẻ em chết khi chưa được rửa tội. Như
thánh Phêrô đã ghi nhận: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn
về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3,15), Giáo hội cũng từng bước gia tăng sự rộng
mở về khả thể ơn cứu độ cho trẻ em chưa được rửa tội trong huấn quyền và cảm thức
đức tin (sensus fidelium) cũng phát triển theo chiều hướng đó. Chính trong lòng
thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa và hiệp đoàn yêu thương của các thánh trên
Thiên quốc, niềm hy vọng được gia tăng không ngừng. Nó được đổi mới để được
công bố và giải thích từ chính kinh nghiệm niềm hy vọng phong phú và đa dạng về
cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, đặc biệt là trong cử hành phụng vụ. (CTI
77-78). Tạm kết nội dung về bối cảnh mới, tài liệu xác định rằng Giáo hội chưa
có một tri thức chắc chắn về ơn cứu độ dành cho trẻ em chưa được rửa tội. Có
chăng, Giáo hội tri nhận và cử hành phụng vụ nhằm tôn vinh Các Thánh Anh Hài
nhưng mạc khải về số phận của trẻ em chết khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa tội vẫn
còn được ẩn giấu. Hội Thánh khiêm nhường giảng dạy và phán xét dựa trên những
gì đã được mạc khải mà thôi. Tựu trung, chúng ta vẫn có một niềm hy vọng về ơn
cứu độ giành cho các em trên nền tảng hiểu biết về Thiên Chúa và Giáo hội vốn
phải được giải thích trong thời đại này. (CTI 79).
Nhìn lại vấn đề, “từ thời rất xa xưa, Bí tích Rửa Tội đã được ban
cho trẻ em, vì đây là ân sủng và hồng ân của Thiên Chúa, chứ không do công
trạng của con người. Các em được Rửa tội trong đức tin của Hội Thánh. Việc bước
vào đời sống Kitô hữu dẫn đến sự tự do đích thực (GLCG 1282). Thế nhưng,
việc các em chết chưa được rửa tội là một thực tế không thể chối cãi và đã được
tra vấn bởi nhiều nhà thần học tiêu biểu. Ở phương đông, Pseudo-Athanase cho
rằng:“ai không được rửa tội thì không được vào Nước Thiên Chúa; trẻ em chưa
được rửa tội cũng cùng số phận ấy, nhưng các em không phải hư mất vì các em
chưa phạm tội riêng”. Tại Tây phương, thánh Augustino dựa vào Ga 3,5 và Mc
16,16 đã kết luận: nếu trẻ em chết khi chưa được Rửa tội “sẽ bị kết án,
nhưng chắc chắn theo một cách thức nhẹ nhàng nhất”. Thời kinh viện, Pierre
Lombard nhận định: “các em này không chịu bất cứ hình phạt nào ngoài việc bị
tước mất sự hưởng kiến Tôn Nhan Thiên Chúa”. Từ đó, học thuyết Lâm Bô được
hình thành (Lâm Bô là nơi an nghỉ của những người công chính đã ra đi trước
Đức Kitô và đợi chờ Ơn Cứu Độ do Đức Kitô mang lại) và như một cách gián
tiếp ghi nhận số phận của các trẻ rằng Lâm Bô là nơi an nghỉ vĩnh viễn dành cho
các trẻ em qua đời khi chưa được Rửa Tội. Do đó, các em không bị luận phạt
nhưng cũng không được hưởng kiến Tôn Nhan Thiên Chúa. Học thuyết này chỉ
tồn tại cho đến thể kỷ XX [4].
So sánh với nỗ lực của Ủy Ban thần học quốc tế trong phần vừa nêu thì
số phận các em không được rõ ràng như thế. Bởi lẽ, sợi chỉ xuyên suốt trong
giới hạn trong các số 70-79 là tinh thần Vui Mừng và Hy Vọng trước những biến
đổi phức tạp của thời đại mới. Vì thế, Ủy ban đã đưa ra cách tiếp cận rất phù
hợp trong bối cảnh mới rất đặc biệt là khởi đi từ thực tế văn hóa lịch sử xã
hội để trò chuyện cùng thế giới và trong thế giới vốn là một Giáo hội mở rộng
hơn là đóng cửa bó hẹp trong giới hạn Giáo hội thu nhỏ. Nỗ lực đến với người
nghèo và những ai đang đau khổ qua xuất phát điểm từ chính những anh chị em đó
giúp Giáo hội ý thức và đào sâu hơn sứ mạng trung tâm niềm hy vọng của mình. Trong
cách tiếp cận mới, Giáo hội thay vì phán xét thì phó thác trong sự quan phòng
của Thiên Chúa dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Tài liệu sẽ đưa ra những
thay đổi cụ thể về việc mở rộng khả thể ơn cứu độ cho các em trong các phần
sau, còn trong giới hạn phần này tài liệu ghi nhận sự phát triển và mở ra của
Giáo hội cũng như là cảm thức đức tin trong hơn năm thập niên trở lại đây, đặc
biệt là dấu ấn của Công Đồng Vatican II. Xét cho cùng, tài liệu đã thể hiện một
Thiên Chúa giàu lòng thương xót với tình yêu mà không đề cập đến Thiên Chúa như
là một vị ‘bạo chúa’ chuyên đi phán xét.
Trong quá trình mục vụ, Karl Rahner đã bị tác động bởi thực
tế những người mẹ không chỉ chịu đau khổ vì mất con mà còn không tin chắc con
mình chưa được ơn cứu độ vì chưa được rửa tội. Ông đã mời gọi Kitô hữu chính
danh nhìn nhận những ai chưa được rửa tội như là các Kitô hữu ẩn danh (anonymous
Christians). Thần học gia dùng thuật nghữ “mạc khải siêu nghiệm” như ân sủng
minh chứng ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được bao hàm trong sự tự thông hiệp.[5] Mạc khải này đề
cập đến kinh nghiệm về Thiên Chúa có thể xảy ra bất nơi đâu và cho bất cứ ai.
Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho tất cả mọi người dù là tín hữu
(believers) hay vô tín hữu (unbelievers). Sự khác biệt hay mâu thuẫn mang “tính
tuyệt đối” (categorical) giữa trong và ngoài Kitô giáo đã được giải quyết theo
nghĩa siêu vượt (transcended). Nghĩa là, điều này diễn ra là nhờ vào mạc khải
siêu nghiệm, được hiểu như là phương thức tự thông tri của Thiên Chúa đến với tất
cả mọi người là những hữu thể siêu vượt (transcendent beings) mang trong mình
phẩm tính siêu nghiệm. Trong kinh nghiệm về Đức Tin Kitô giáo, chúng ta tri nhận
ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa với công trình của Chúa Giêsu Kitô qua mầu nhiệm nhập
thể - cuộc đời – khổ nạn – chịu chết – phục sinh của Người. Lẽ dĩ nhiên, ơn cứu
độ phổ quát với lòng thương xót vô hạn của Người không thể bị giới hạn ở những
ai được gọi là Kitô hữu chính danh qua việc gia nhập Giáo hội nhờ bí tích rửa tội,
tuyên xưng đức tin, hay các nghi thức phụng tự mà còn lan rộng đến các Kitô hữu
ẩn danh vốn được nhìn nhận từ trong thực tế hiện hữu nội tâm của họ.[6] Cũng thế, Công đồng Vatican II đưa một số xác tín định
hướng căn bản: a/ Ơn cứu độ của Chúa dành
cho tất cả mọi người không phân biệt ai (LG 16); b/ Con người được tạo dựng
theo hình ảnh Chúa nên phẩm giá con người hệ tại ở việc kết hợp với Chúa và chỉ
có trong mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô mà mầu nhiệm của con người mới tìm thấy
ý nghĩa (GS 19); c/ “Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì thực sự chỉ có một
ơn gọi tối hậu của con người, ơn gọi từ Thiên Chúa, nên chúng ta phải tin chắc
rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm phục sinh
ấy theo cách thế mà chỉ có Chúa biết (GS 22). Xuất phát từ định hướng đó,
sách GLHTCG 1992 ghi nhận: “về các em chết
mà chưa được lãnh Bí tích Rửa Tội, Hội Thánh chỉ biết phó dâng các em cho lòng
thương xót của Thiên Chúa, như Hội Thánh đã làm trong nghi lễ an táng dành cho
các em…” (GLCG 1261)[7].
Kết luận tốt nhất trong tinh thần Vui Mừng và Hy Vọng “về phần các
trẻ em chết mà chưa được rửa tội, phụng vụ Hội Thánh mời gọi chúng ta tin tưởng
vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và cầu nguyện cho các em được ơn cứu độ” (GLCG
1283). Vì thế, xin tín thác số phận trẻ em chết chưa được rửa tội, đặc biệt là
các thai nhi, vào lòng thương xót bao la và tình yêu không giới hạn của Thiên
Chúa Cha qua mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô dưới sự soi sáng của Chúa
Thánh Thần.
[1] Đỗ
Xuân Vinh, Bí Tích Rửa Tội, Lưu Hành
Nội Bộ, (ĐCV Thánh Giuse: Saigon, 2017). 122.
[2] Đỗ
Xuân Vinh, Bí Tích Rửa Tội, Lưu Hành
Nội Bộ, (ĐCV Thánh Giuse: Saigon, 2017). 128.
[3] Viết tắt CTI = Ủy ban
thần học quốc tế, The Hope of Salvation
for infants who die without being baptised, (Rome, 2007).
[4] Đỗ Xuân Vinh, Op.cit.,
122-125.
[5] Karl Rahner, The
Content of Faith,
Edited
by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York,
2006). 592.
[6] Ibid., 593.
[7] Đỗ Xuân Vinh, Op.cit.,
126.



