Tuesday, November 28, 2017

Bối Cảnh Mới Trong Niềm Hy Vọng Cứu Độ cho những trẻ em chết chưa được rửa tội

Tra vấn trong nội dung bí tích Rửa tội, trường hợp “trẻ em chết khi chưa được Rửa tội” được đưa ra như là một vấn đề nan giải. Bởi lẽ, chính trong nền tảng Thánh Kinh đã không minh nhiên giải đáp cho cụ thể cho số phận của các em. Thế nhưng, qua các đề cập mặc nhiên, Thánh Kinh xác tín hai điểm: a/ nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người; b/ sự cần thiết của Bí tích Rửa tội để được cứu độ[1]. Do đó, nỗ lực dung hòa giữa hai điểm này sẽ hé lộ ra số phận của trẻ em chết chưa được rửa tội. Một cách cụ thể, Uỷ Ban Thần Học Quốc tế đã trình bày những suy tư thần học đã có nỗ lực tra vấn trong tài liệu The Hope of Salvation for infants who die without being baptised” (Niềm Hy Vọng Cứu Độ cho những trẻ em chết chưa được rửa tội). Bài viết này sẽ tập trung ghi nhận quan điểm của Ủy ban trong phần 3.1. The new contextmột bối cảnh mới trong các số 70-79 qua việc tái trình bày nội dung chính để đưa ra một vài bình luận về tài liệu cũng như một nỗ lực phản tỉnh thần học cá nhân dưới sự soi sáng của Karl Rahner.
Tài liệu đưa ra thế giằng co giữa hai quan điểm: Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người và sự cần thiết của Bí tích Rửa Tội để được Ơn Cứu Độ”[2] qua chiều dài lịch sử như một bức họa tranh tối tranh sáng. Do đó, cách tra vấn khôn ngoan là dựa vào hướng dẫn của Chúa Thánh Thần nhằm diễn tả một nỗ lực suy tư thần học về vấn đề này (CTI[3] 70). Dưới ánh sáng Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vatican II, thần học được mời gọi nhận ra dấu chỉ thời đại dưới ánh sáng Lời Chúa: để chân lý mạc khải luôn được nhận thức, được thấu triệt, và được trình bày cách thích hợp hơn” (GS 44). Bởi lẽ, thế giới đã ghi nhận một Chúa Giêsu lịch sử chịu đau khổ, chịu chết và sống lại với mục đích dành cho Giáo hội cũng chính là thân mình Chúa Kitô. Nên khi thấu hiếu các dấu chỉ thời đại thì cũng chính là lúc Giáo hội thấm nhuần sâu sắc hơn sứ điệp cứu độ được tín thác cho chính mình. Đây cũng là cơ hội để đổi mới sự quan tâm đến các khía cạnh đặc biệt của Lời Chúa nhằm tìm ra những nội dung quan tâm mới trong ngàn năm thứ ba (CTI 71). Điểm chính yếu về bối cảnh mới, trên bình diện thế giới, sự xuất hiện hàng loạt các Liên hiệp với mục đích thống nhất giữa các quốc gia để cùng mưu cầu hòa bình và hiệp nhất nhằm thoát khỏi tình trạng chiến tranh và hỗn loạn xã hội. Trên bình diện cá nhân, sự cám dỗ về việc đắm chìm trong sự tuyệt vọng đang bao trùm trên nhiều người. Khi niềm hy vọng dường như không còn xuất hiện trong đời sống tục hóa thì Giáo hội nhận thức sâu sắc hơn về niềm hy vọng vốn là trung tâm Kinh Thánh Kitô giáo như trích thư thánh Phaolô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4,4). Vui Mừng và Hy Vọng không chỉ là Hiến Chế về đời sống Giáo hội mà còn là lời mời gọi cho các Kitô hữu để trở nên những chứng nhân cũng như là khí cụ niềm hy vọng trong thế giới (Xx. LG 48; GS 1). Trong lĩnh vực truyền thông, khoảng cách không gian xem ra không còn là giới hạn để mọi người có thể tri nhận những khổ đau trên thế giới vốn được phổ bày một cách sinh động và chân thực. Vì thế, Giáo hội nhìn nhận trọng tâm của bố thí hay công tác thiện nguyện như là cơ hội để thông hiểu tình yêu, lòng thương xót và cảm thông của Thiên Chúa một cách sâu sắc hơn. Qua đó, chúng ta học biết tin tưởng và ca ngợi hồng ân Thiên Chúa như ngôn từ của Thánh Phaolô: “Xin tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” (Ep 3,20). Cũng từ trong Kinh Thánh, Giáo hội nhận ra những khả thể của trẻ em vốn được Chúa Giêsu yêu quý: để các em đến với Người (Mt 19,14; Xx. Lk 15,15-16); các em như là hiện thân của Người (Mk 9,37); nên như trẻ nhỏ để hưởng phúc Nước Trời (Mt 18,3); nước Trời hứa ban cho những ai giống các em (Mt 18,4); không để trẻ em bị tổn hại (Mt 18,6); các em có đại diện là các thiên thần (Mt 18,10). Do đó, Giáo hội đổi mới lời cam kết để thể hiện tình yêu và sự quan tâm của chính Chúa Kitô dành cho trẻ em (Xx. LG 11; GS 48,50). Cuối cùng, đối thoại liên tôn và hội nhập văn hóa giúp hẹp khoảng cách giữa các tôn giáo và các nền văn hóa. Từ đó, Giáo hội được khích lệ để luôn tập trung chú ý về những nẻo đường huyền nhiệm của Thiên Chúa cũng như của chính Giáo hội. (CTI 72-76).
Một lần nữa, trong tinh thần Vui Mừng và Hy Vọng, hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới ‘theo cách thế mà chỉ có Chúa biết” (GS 22) được đặc biệt quan tâm chú ý. Nhờ vào ân sủng của Chúa Thánh Thần, Giáo hội được thông hiểu hơn về mạc khải của Thiên Chúa để làm sáng tỏ hơn vấn đề đang được tra vấn, đặc biệt trong một bối cảnh với nhiều yếu tố mới vừa được trình bày. Trong đó, niềm hy vọng là nội dung bao trọn tất cả phần phản tỉnh và trình bày. Từ đó, Giáo hội đổi mới niềm hy vọng nhằm đáp trả lại những dấu chỉ thời đại, cách đặc biệt là vấn đề của trẻ em chết khi chưa được rửa tội. Như thánh Phêrô đã ghi nhận: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3,15), Giáo hội cũng từng bước gia tăng sự rộng mở về khả thể ơn cứu độ cho trẻ em chưa được rửa tội trong huấn quyền và cảm thức đức tin (sensus fidelium) cũng phát triển theo chiều hướng đó. Chính trong lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa và hiệp đoàn yêu thương của các thánh trên Thiên quốc, niềm hy vọng được gia tăng không ngừng. Nó được đổi mới để được công bố và giải thích từ chính kinh nghiệm niềm hy vọng phong phú và đa dạng về cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, đặc biệt là trong cử hành phụng vụ. (CTI 77-78). Tạm kết nội dung về bối cảnh mới, tài liệu xác định rằng Giáo hội chưa có một tri thức chắc chắn về ơn cứu độ dành cho trẻ em chưa được rửa tội. Có chăng, Giáo hội tri nhận và cử hành phụng vụ nhằm tôn vinh Các Thánh Anh Hài nhưng mạc khải về số phận của trẻ em chết khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa tội vẫn còn được ẩn giấu. Hội Thánh khiêm nhường giảng dạy và phán xét dựa trên những gì đã được mạc khải mà thôi. Tựu trung, chúng ta vẫn có một niềm hy vọng về ơn cứu độ giành cho các em trên nền tảng hiểu biết về Thiên Chúa và Giáo hội vốn phải được giải thích trong thời đại này. (CTI 79).
Nhìn lại vấn đề, “từ thời rất xa xưa, Bí tích Rửa Tội đã được ban cho trẻ em, vì đây là ân sủng và hồng ân của Thiên Chúa, chứ không do công trạng của con người. Các em được Rửa tội trong đức tin của Hội Thánh. Việc bước vào đời sống Kitô hữu dẫn đến sự tự do đích thực (GLCG 1282). Thế nhưng, việc các em chết chưa được rửa tội là một thực tế không thể chối cãi và đã được tra vấn bởi nhiều nhà thần học tiêu biểu. Ở phương đông, Pseudo-Athanase cho rằng:“ai không được rửa tội thì không được vào Nước Thiên Chúa; trẻ em chưa được rửa tội cũng cùng số phận ấy, nhưng các em không phải hư mất vì các em chưa phạm tội riêng”. Tại Tây phương, thánh Augustino dựa vào Ga 3,5 và Mc 16,16 đã kết luận: nếu trẻ em chết khi chưa được Rửa tội “sẽ bị kết án, nhưng chắc chắn theo một cách thức nhẹ nhàng nhất”. Thời kinh viện, Pierre Lombard nhận định: “các em này không chịu bất cứ hình phạt nào ngoài việc bị tước mất sự hưởng kiến Tôn Nhan Thiên Chúa”. Từ đó, học thuyết Lâm Bô được hình thành (Lâm Bô là nơi an nghỉ của những người công chính đã ra đi trước Đức Kitô và đợi chờ Ơn Cứu Độ do Đức Kitô mang lại) và như một cách gián tiếp ghi nhận số phận của các trẻ rằng Lâm Bô là nơi an nghỉ vĩnh viễn dành cho các trẻ em qua đời khi chưa được Rửa Tội. Do đó, các em không bị luận phạt nhưng cũng không được hưởng kiến Tôn Nhan Thiên Chúa. Học thuyết này chỉ tồn tại cho đến thể kỷ XX [4].
So sánh với nỗ lực của Ủy Ban thần học quốc tế trong phần vừa nêu thì số phận các em không được rõ ràng như thế. Bởi lẽ, sợi chỉ xuyên suốt trong giới hạn trong các số 70-79 là tinh thần Vui Mừng và Hy Vọng trước những biến đổi phức tạp của thời đại mới. Vì thế, Ủy ban đã đưa ra cách tiếp cận rất phù hợp trong bối cảnh mới rất đặc biệt là khởi đi từ thực tế văn hóa lịch sử xã hội để trò chuyện cùng thế giới và trong thế giới vốn là một Giáo hội mở rộng hơn là đóng cửa bó hẹp trong giới hạn Giáo hội thu nhỏ. Nỗ lực đến với người nghèo và những ai đang đau khổ qua xuất phát điểm từ chính những anh chị em đó giúp Giáo hội ý thức và đào sâu hơn sứ mạng trung tâm niềm hy vọng của mình. Trong cách tiếp cận mới, Giáo hội thay vì phán xét thì phó thác trong sự quan phòng của Thiên Chúa dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần. Tài liệu sẽ đưa ra những thay đổi cụ thể về việc mở rộng khả thể ơn cứu độ cho các em trong các phần sau, còn trong giới hạn phần này tài liệu ghi nhận sự phát triển và mở ra của Giáo hội cũng như là cảm thức đức tin trong hơn năm thập niên trở lại đây, đặc biệt là dấu ấn của Công Đồng Vatican II. Xét cho cùng, tài liệu đã thể hiện một Thiên Chúa giàu lòng thương xót với tình yêu mà không đề cập đến Thiên Chúa như là một vị ‘bạo chúa’ chuyên đi phán xét.
Trong quá trình mục vụ, Karl Rahner đã bị tác động bởi thực tế những người mẹ không chỉ chịu đau khổ vì mất con mà còn không tin chắc con mình chưa được ơn cứu độ vì chưa được rửa tội. Ông đã mời gọi Kitô hữu chính danh nhìn nhận những ai chưa được rửa tội như là các Kitô hữu ẩn danh (anonymous Christians). Thần học gia dùng thuật nghữ “mạc khải siêu nghiệm” như ân sủng minh chứng ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được bao hàm trong sự tự thông hiệp.[5] Mạc khải này đề cập đến kinh nghiệm về Thiên Chúa có thể xảy ra bất nơi đâu và cho bất cứ ai. Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho tất cả mọi người dù là tín hữu (believers) hay vô tín hữu (unbelievers). Sự khác biệt hay mâu thuẫn mang “tính tuyệt đối” (categorical) giữa trong và ngoài Kitô giáo đã được giải quyết theo nghĩa siêu vượt (transcended). Nghĩa là, điều này diễn ra là nhờ vào mạc khải siêu nghiệm, được hiểu như là phương thức tự thông tri của Thiên Chúa đến với tất cả mọi người là những hữu thể siêu vượt (transcendent beings) mang trong mình phẩm tính siêu nghiệm. Trong kinh nghiệm về Đức Tin Kitô giáo, chúng ta tri nhận ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa với công trình của Chúa Giêsu Kitô qua mầu nhiệm nhập thể - cuộc đời – khổ nạn – chịu chết – phục sinh của Người. Lẽ dĩ nhiên, ơn cứu độ phổ quát với lòng thương xót vô hạn của Người không thể bị giới hạn ở những ai được gọi là Kitô hữu chính danh qua việc gia nhập Giáo hội nhờ bí tích rửa tội, tuyên xưng đức tin, hay các nghi thức phụng tự mà còn lan rộng đến các Kitô hữu ẩn danh vốn được nhìn nhận từ trong thực tế hiện hữu nội tâm của họ.[6] Cũng thế, Công đồng Vatican II đưa một số xác tín định hướng căn bản: a/ Ơn cứu độ của Chúa dành cho tất cả mọi người không phân biệt ai (LG 16); b/ Con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa nên phẩm giá con người hệ tại ở việc kết hợp với Chúa và chỉ có trong mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô mà mầu nhiệm của con người mới tìm thấy ý nghĩa (GS 19); c/ “Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì thực sự chỉ có một ơn gọi tối hậu của con người, ơn gọi từ Thiên Chúa, nên chúng ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm phục sinh ấy theo cách thế mà chỉ có Chúa biết (GS 22). Xuất phát từ định hướng đó, sách GLHTCG 1992 ghi nhận: “về các em chết mà chưa được lãnh Bí tích Rửa Tội, Hội Thánh chỉ biết phó dâng các em cho lòng thương xót của Thiên Chúa, như Hội Thánh đã làm trong nghi lễ an táng dành cho các em…” (GLCG 1261)[7]
Kết luận tốt nhất trong tinh thần Vui Mừng và Hy Vọng “về phần các trẻ em chết mà chưa được rửa tội, phụng vụ Hội Thánh mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và cầu nguyện cho các em được ơn cứu độ” (GLCG 1283). Vì thế, xin tín thác số phận trẻ em chết chưa được rửa tội, đặc biệt là các thai nhi, vào lòng thương xót bao la và tình yêu không giới hạn của Thiên Chúa Cha qua mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần.



[1] Đỗ Xuân Vinh, Bí Tích Rửa Tội, Lưu Hành Nội Bộ, (ĐCV Thánh Giuse: Saigon, 2017). 122.
[2] Đỗ Xuân Vinh, Bí Tích Rửa Tội, Lưu Hành Nội Bộ, (ĐCV Thánh Giuse: Saigon, 2017). 128.
[3] Viết tắt CTI = Ủy ban thần học quốc tế, The Hope of Salvation for infants who die without being baptised, (Rome, 2007).
[4] Đỗ Xuân Vinh, Op.cit., 122-125.
[5] Karl Rahner, The Content of Faith, Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006). 592.
[6] Ibid., 593.
[7] Đỗ Xuân Vinh, Op.cit., 126.

No comments: