Nội dung: Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích. Chỉ Nam
Giảng Lễ. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2015). Trang 14-48.
Chi
tiết:
o
Thành phần của phụng vụ vì bài
giảng nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu.
o
Đồng thời, bài giảng là một hành
vi thờ phượng, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa.
- Bản chất đặc thù của
bài giảng là sự cảm nhận Lời Chúa nói với
chúng ta trong đời sống hiện tại của mình hay hôm nay Thiên Chúa nói
với dân của Người và họ đáp trả (LC 52). Và giúp ta hiểu hơn chức
năng đặc biệt của nó (không phải là bài thuyết trình hay bài diễn
văn, hay một bài dạy giáo lý). Nhưng bài giảng phải được đặt trong bối
cảnh của cử hành phụng vụ. Bởi trong bối cảnh cử hành phụng
vụ cho phép chúng ta lắng nghe Lời Chúa và đỉnh điểm là sự
hiến tế của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha hằng hữu.
- Bài
giảng còn mang ý nghĩa chiều kích của bí
tích vì chính Người đang hiện diện và ngỏ lời với chúng
ta để được chúng ta lắng nghe.
- Những
người có quyền công bố Lời Chúa chính là các giám mục, linh mục và
phó tế hay là những người lãnh chức thánh (X. Huấn thị
Repdemptionis Sacramentum, 161) bởi vì bản chất
sâu xa mang tính phụng vụ là để thờ phượng Thiên Chúa.
- Trong
bài một bài giảng lễ, linh mục có thể kết hợp với những câu chuyện
chứng tá cá nhân, giáo huấn về đạo lý, chú giải Kinh Thánh nhưng
những điều đó phải được nối kết hợp lý với chủ đề
của các bài đọc Kinh Thánh và giáo lý Giáo Hội.
- Cuối
cùng, bài giảng cần phải đáp ứng các nhu cầu của một
cộng đoàn đặc thù, và được gợi hứng từ sự quan tâm đó. Trong Tông
huấn Niềm vui Tin Mừng, ĐGH Phanxicô nói như sau:
o Người
giảng phải biết lắng nghe đức tin của dân và giảng như thế nào.
o Người
giảng phải biết nói gì để tìm ra cách phù hợp với trình độ khác
nhau của cộng đoàn (giới trẻ, thiếu nhi, hiền mẫu).
o Dùng
ngôn ngữ “nền văn hóa mẹ đẻ” để tim ta sẵn sàng lắng nghe hơn.
o
Bài giảng giải thích mầu nhiệm
đức tin và các quy tắc của đời sống Kitô giáo.
o
Bài giảng nhằm mục đích làm cho
LỜI CHÚA trở nên “Lời rao truyền các việc kỳ diệu của Thiên Chúa
trong lịch sử cứu độ, tức là mầu nhiệm Chúa Kitô (PV, 35).
o
Bài giảng dẫn dắt cộng đoàn
tín hữu tới việc cử hành Thánh Thể cách tích cực, để họ
diễn tả trong cuộc sống điều mà họ đã lãnh nhận đức tin. (PV 10).
-
Bài giảng trong thánh lễ bao
hàm một năng động vừa đơn giản vừa lôi cuốn.
o
Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô
được loan báo qua các bài đọc và giảng lễ.
o
Mầu nhiệm Vượt Qua được hiện
tại hóa qua hy tế thánh lễ (giúp họ ý thức rằng, khi tham dự cử
hành này, họ thật sự chia sẻ mầu nhiệm cái chết và sự sống lại
của Chúa).
o
Cuối cùng, chuyển động thứ ba là
bài giảng lễ có tính chất thánh hóa cộng đoàn tín hữu
qua đời sống thực của họ.
o
Nói tóm lại, bài giảng lễ là sự
suy tư về ý nghĩa của các bài đọc và các lời nguyện của một buổi
cử hành, cũng như dẫn đưa cộng đoàn đến Phụng Vụ Thánh Thể, nơi mọi
người được tham dự vào chính mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.
“Dân Chúa được quy tụ trước tiên là nhờ lời Thiên
Chúa hằng sống, lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục…
Do đó, các linh mục, vì là cộng sự viên của các Giám mục, nên trước tiên có nhiệm
vụ loan báo cho mọi người Tin Mừng của Thiên Chúa” (Sắc lệnh về tác vụ và đời sống các linh mục, 4).
Làm thế nào để rao giảng chân lý Phúc Âm cách hiệu quả?
a. Bám sát vào các
bài đọc trong thánh lễ (x. hiến chế PV, 52).
· Tham khảo các
sách chú giải kinh thánh
· Các lời nguyện
khác nhau trong buổi cử hành
ð Bài giảng phải
được múc lấy từ nguồn thánh kinh và phụng vụ, công bố những kỳ
công của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ hay trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Chính mầu
nhiệm này hằng hiện diện cách thiết thực và tác động trong chúng ta, nhất là
trong các cử hành phụng vụ (x. PV, 35).
ð Các bản văn
thánh không những là bài đọc thánh kinh, mà còn cả các bản văn được dùng trong
phần thường lễ hay phần lễ riêng của ngày hôm đó.
2.1.
Nội dung và tính thống nhất của toàn bộ kinh
thánh
a. Bộ kinh thánh
· Tuy khác biệt
nhau, nhưng kinh thánh vẫn là một vì kế hoạch của Thiên Chúa là duy nhất, Đức
Kitô Giêsu là trung tâm và trái tim của kế hoạch ấy, một trái tim mở ra từ cuộc
Vượt Qua của ngài. (số 17.1)
· Mầu nhiệm Vượt
qua vén mở ý nghĩa của kinh thánh. Vị giảng lễ phải giúp các tín hữu đọc kinh
thánh dưới ánh sáng của mầu nhiệm VQ, sao cho Đức Kitô mặc khải
cho họ nội dung của thánh kinh (số 18).
b. Tính thống nhất
nơi chính cấu trúc sách bài đọc.
· Thể hiện nơi
chính cấu trúc của sách bài đọc trong suốt năm PV theo chu kỳ 3 năm. Lưu ý:
Sách bài đọc chỉ chứa khoảng 13% bộ thánh kinh, gồm 6% Cựu
Ước và 41% Tân Ước.
· Theo mùa PV lớn:
Tam Nhật VQ (trung tâm của năm PV) được chuẩn bị bởi sách bài đọc
Mùa Chay, được khai triển nhờ sách Bài đọc Mùa Phục Sinh. Tương tự với chu kỳ
Mùa Vọng – Giáng Sinh – Hiển Linh.
· Nơi sách Bài đọc
Chúa Nhật và sách Bài đọc lễ trọng và lễ kính. Bài đọc Cựu Ước được chọn dưới ánh
sáng của bài Tin Mừng;
Thánh vịnh Đáp ca, tung hô TM được gợi hứng từ bài đọc đi trước.
§ Thánh lễ Chúa Nhật:
bài đọc I rút từ CƯ
(mùa PS trích sách Cv); bài đọc 2 trích các thư thánh Phao lô được đọc bán liên
tục (hoặc từ sách Khải huyền, tùy mùa); chúng ta có thể tìm thấy mối liên hệ giữa
bài đọc 2 này với bài Cựu Ước và bài Tin Mừng.
ð Sách Bài đọc mời
gọi vị giảng lễ nhận ra các bài đọc Kinh thánh soi sáng lẫn nhau. Nói cách khác
là làm nổi bật mầu nhiệm Chúa Kitô và lịch sử cứu độ.
ð Sách bài đọc
giúp cộng đoàn tiếp cận thánh kinh nhiều hơn nhưng không có nghĩa là toàn bộ
thánh kinh.
2.2.
Truyền
thống sống động của toàn thể hội thánh
· “Kinh thánh
được viết trên trái tim của hội thánh hơn là trên tài liệu vật chất” (châm
ngôn các giáo phụ). Chúa Thánh Thần ban cho hội thánh khả năng giải thích kinh
thánh theo nghĩa thiêng liêng (GLCG 113) (số 17.2). “Nơi phát sinh ra việc
giải thích kinh thánh là đời sống của Giáo hội” (LC 29).
·
Hiện
tại hóa Lời Chúa: Thông truyền ý nghĩa cho con người đương thời hôm nay.
2.3.
Tính
tương hợp của Đức tin
· Nghĩa là sự gắn
kết hài hòa giữa các chân lý đức tin với nhau và trong toàn bộ mặc khải (số
17.3). Mối dây liên kết giữa các đạo lý và hệ trật các chân lý đức tin (số 21).
· Trong mầu nhiệm
cuộc VQ mà mọi “lời kinh thánh đều được hoàn tất”. Mầu nhiệm đức tin tập
trung vào Chúa Giêsu Kitô nhờ cuộc VQ của Ngài công cuộc hòa giải nhân loại với
TC được hoàn thành. Đó là mầu nhiệm vượt tầm trí hiểu của con người nhưng TC đã
tỏ cho ta biết.
· Liên kết các mầu
nhiệm đức tin với những quy tắc đời sống kitô giáo.
a.
Phụ
lục I của Chỉ Nam Giảng Lễ
b.
Nghĩa
thiêng liêng của Kinh thánh dưới tác động của Chúa Thánh Thần (LC 37); tham khảo
nơi các giáo phụ (bộ Catena Aurea), nơi các Thánh Vịnh trong các giờ Kinh phụng
vụ, nơi việc đọc và suy gẫm Sách thánh.
a.
Bài
giảng không nhằm trình bày những giáo thuyết trừu tượng hoặc hệ thống các giáo
điều nhưng phải khởi đi từ các bản văn thánh để trình bày kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa vốn được chuẩn bị trong Cựu Ước,
được hoàn thành nơi Chúa Kitô và tiếp diễn trong đời
sống giáo hội.
b.
Cấu
trúc sách bài đọc: các bài Tin Mừng được chọn theo nguyên tắc liên tục và bán
liên tục (ví dụ đọc TM Luca từ Chúa Nhật này sang Chúa Nhật khác). Bài đọc Cựu
Ước theo nguyên tắc hòa hợp.
c.
Theo
3 tiểu chuẩn
a.
Trong
bài giảng có chiều kích huấn giáo, vậy có nên đưa giáo lý vào bài giảng? trong
bối cảnh ngày nay nơi các giáo xứ có nhiều tín hữu thiếu nền tảng giáo lý vững
chắc, cho dù, nhiều khi chủ đề giáo lý không liên hệ gì đến những bài thánh
kinh được chọn.
b.
Đôi
khi ba bài đọc không cùng chủ đề, phải giảng như thế nào?
QA:
1. Phân
biệt bài giảng vs. bài chú giải, giáo lý?
ü Đối
tượng và bối cảnh phụng vụ
ü Bản
chất đặc thù: cảm nhận Lời Chúa à
hiện tại hóa
ü Nội
dung: Bài giảng – đã có sẳn, theo mục đích giáo dục Đức Tin của Giáo Hội vs.
Chú giải/giáo lý – có thể chọn và trình bày theo mục đích chú giải/giảng dạy
giáo lý.
2. Xác
định nguồn quy chiếu như thế nào cho phù hợp và thống nhất: Lời Chúa – Bài đọc
I, II, Đáp Ca, Lời Nguyện Giáo Dân trong truyền thống sống động của
Giáo Hội Công Giáo?
ü Cần
đọc trong bối cảnh thống nhất chung.
ü Thánh
Kinh vs. Thánh Truyền – truyền thống lưu truyền Mặc Khải: Giáo Hội tuyên xưng đức
tin, Giáo Hội sống, Giáo Hội giải thích, Giáo Hội cầu nguyện à truyền thông sống động:
không chỉ trong văn tự mà còn trong đời sống của Giáo Hội.
ü Bài
giảng cần trích thêm các văn bản của Giáo Hội.
3. Bài
đọc được chọn như thế nào khi Phụng Vụ chưa được hình thành và phát triển?
ü Cần
đọc lại tài liệu về Phụng Vụ à
tiến trình phát triển liên tục của Phụng Vụ.
ü Dựa
theo kinh nghiệm và thống nhất chung à
giáo hội địa phương à
giáo hội hoàn vũ.
4. Cấu
trúc của các bài đọc trong Năm Phụng Vụ liên hệ với cấu trúc trong chính bài đọc
và các bài đọc như thế nào?
ü Theo
một chủ đề thống nhất của Phụng Vụ à
ưu tiên về các mầu nhiệm mà đỉnh cao là Mầu nhiệm Vượt Qua à củng cố đời sống tương
giao với Thiên Chúa với anh chị em chung quanh.
ü Bài
đọc I (Cựu Ước) + Phúc Âm – Ý chính : Trình bày mầu nhiệm Thiên
Chúa làm cho ta (mầu nhiệm Thiên Chúa : kỳ công/công trình của Thiên Chúa đã
làm cho ta). Cựu Ước – chuẩn bị; Tân Ước – kiện toàn à để hiểu Tân Ước cần đọc
lại Cựu Ước.
ü Đáp
Ca: Tâm tình cảm tạ/ngợi khen à
Tân Ước
ü Bài
đọc II (Thánh Thư) – Hành động: Mang tính mục vụ
5. .
· “Chuẩn
bị giảng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đòi chúng ta phải dành một lượng thời gian dài cho việc học
hỏi, cầu nguyện, suy tư và sáng tạo mục vụ” (NVTM, 145)
·
“Một vi giảng lễ mà không
chuẩn bị, không cầu nguyện, thì là một người bất lương và vô trách nhiệm” (NVTM, 145), là một ngôn sứ giả, một kẻ lừa đảo, một kẻ
huênh hoang trống rỗng” (NVTM, 151)
·
Người giảng lễ: thông truyền (phân
phát) lương thực thiêng liêng à không huênh hoang, ngỏ lời
+ lắng nghe, chịu “thương tích” à Lời Chúa thấm nhập vào
thính giả (s. 26)
-
Các câu hỏi nằm lòng: Lectio – Tự nó, bản văn muốn nói gì với chúng ta? Meditatio
– Bản văn Kinh Thánh muốn nói gì với
chúng ta? Oratio – Ta phải nói gì với
Chúa để đáp lại lời Người? Contemplatio – Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải hoán cải tinh thần, con tim và đời sống
như thế nào? à
Actio – hành động.
-
Phương pháp Lectio Divina rất quan trọng và cần
được sử dụng (s. 28)
|
Lectio Divina: đọc, suy
niệm, cầu nguyện và chiêm niệm + Actio:
Hành động
|
|
Lectio
|
- tham khảo chú giải, tự điển và các nghiên cứu;
(2) bối cảnh bản văn: đầu – cuối; (3) đặt trong lịch sử cứu độ à dấu chỉ thời đại (s. 29)
- rút ra sứ điệp chính yếu (s. 30)
- Ngôn từ – “đơn
sơ, sáng sủa, cụ thể, thích ứng với hoàn cảnh con người” à tránh ngôn từ thần học chuyên
biệt, xa lạ à sử dụng
hình ảnh (s. 31)
|
|
Meditatio
|
- Lạy
Chúa, bản văn này muốn nói gì với con? Với sứ điệp này, Chúa muốn thay đổi gì
trong cuộc sống của con? Điều gì làm cho con khó chịu trong bản văn này? Tại
sao bản văn này không gây thích thú gì cho con? Điều gì làm cho con vui
thích, điều gì làm cho con hài lòng trong bản văn này? Điều gì lôi kéo con? Tại
sao lại lôi kéo con? à suy niệm trong mầu nhiệm Vượt Qua à nhận ra hàm ý luân lý + đạo lý của Lời Chúa. (32)
- Bối cảnh cộng đoàn: chiêm niệm Lời Chúa + giáo
dân à chú tâm lắng nghe dân chúng à anh chị em cần nghe gì (bối cảnh giáo xứ)? è chuẩn bị trong thời gian dài: suy tư phản tỉnh (33)
|
|
Oratio
|
- đối thoại tự phát à ngôn từ kính sợ + kinh ngạc à ca tụng, yêu mến, và tạ ơn: suy niệm à cầu nguyện ~ bản văn Kinh Thánh à các phần khác: mời gọi đáp lời. Mỗi thánh lễ chỉ có một bài giảng mà thôi.
|
|
Contemplatio
|
- ân ban: kết hợp với Chúa à cầu xin Chúa Thánh Thần à hạt giống lời Chúa nảy mầm và trổ sinh hoa
trái trong Thiên Chúa hơn là trong ý tưởng phàm nhân
|
|
Actio
|
- dâng hiến đời mình à lời mời gọi ra đi/ lên đường dành cho toàn thể dân Chúa
|
QA:
1. Việc
chuẩn bị
ü Học
hỏi
ü Đọc
Lời Chúa trong tâm tình cầu nguyện – thấm nhập vào mình. Bước chuẩn bị là bước giảng
lễ:
i.
Đọc/Xem – Điểm nhấn: Câu chốt – từ chốt à mở ý nghĩa bản văn
ii.
Suy niệm - Xét:
iii.
Cầu nguyện/Cảm nhận: Chúc tụng ngợi khen
iv.
Chiêm niệm: thấm nhập vào mình
v.
Hành động: áp dụng cho tôi và cho thính
giả
ü Quá
trình soạn giảng
2. Liên
kết Lectio Divina vs. Open Head – Open Heart – Open Hand