Monday, September 23, 2019

Bài Tóm: Linh Ứng


Nội dung: In Raymond Brown, Joseph Fitzuyer, and Roland Murphy (eds). The New Jerome Biblical Commentary. (New Jersey: Prentie Hall, 1990). Pages 1023 – 1033.
Bài Tóm:

I.        Tuyên bố của công đồng

Linh ứng mang đặc tính siêu nhiên và độc nhất chỉ dành cho Thánh Kinh để xác định Thiên Chúa chính là tác giả. Do đó, Thánh Kinh thể hiện giáo huấn chính xác, trung tín và không có lỗi gì nhằm mang lại ơn cứu độ cho con người. Ngược lại, chính Thánh Kinh là minh chứng sáng tỏ để hiểu và trình bày linh ứng.  

II.     Giáo hội sơ khai nói gì về linh ứng?

Kinh Thánh xác nhận ơn linh ứng của các ngôn sứ, là nguồn ơn của sự cứu độ. Trong đó, bản văn thể hiện: (i) ý nghĩa toàn bộ kinh thánh (pasa graphe – tất cả bản văn); (ii) ý nghĩa linh ứng (theopneustos – Thiên Chúa linh hứng); và (iii) chức năng ngữ pháp của linh ứng (giáo huấn + cổ võ luân lý). (2 Tim 3, 16-17). Ơn linh ứng không bởi do người phàm mà do Thiên Chúa – Ơn Chúa Thánh Thần (2 Pr 1, 19-21). Chúa Thánh Thần linh hứng cho các ngôn sứ (người vĩ đại nhất là Mô-sê) (Truyền thống Do Thái). Tác giả thần linh (Thiên Chúa) là tác giả công trình sách Thánh (trường phái Alexandria: Clement, Origen).
Linh ứng là kết quả của hiện tượng xuất thần: Thánh thần chiếm lấy ngôn sứ (Theophilus), Lời Chúa thúc đẩy ngôn sứ nói ra (Justin Martyr), ngôn sứ như cây sáo trong tay Thánh Thần (Athenagoras).
Con người cộng tác với Thiên Chúa: Ngôn sứ + tác giả Kinh Thánh tự nguyện và ý thức viết Lời Chúa thành bản văn (Origen).
Con người là dụng cụ viết lại những gì Thiên Chúa đọc cho chép lại (Augustine).
è   Mỗi tác giả có mỗi cách thức diễn tả khác nhau quy về 3 mẫu thức chính: (i) Condescension: Thiên Chúa nói qua ngôn ngữ của con người (Origen, John Chrysostom); (ii) Dictation: Thiên Chúa là tác nhân – con người là công cụ (Augustine, Jerome, John Calvin); (iii) God the author: Thiên Chúa là tác giả tối hậu, con người là tác giả văn chương (hành văn) (Ambrose)

III.   Linh ứng: Thiên Chúa truyền miệng cho các ngôn sứ?

Kinh Thánh là tiếng nói trực tiếp của Thiên Chúa, ngôn sứ và tông đồ chỉ là khí quản (W. Whitaker). Thiên Chúa hay Thánh Thần là tác nhân tác thành chính, con người là tác nhân tác thành công cụ (Aquinas) à linh ứng là món quà đặc biệt của các ngôn sứ vì lợi ích của cộng đoàn à khả năng ngôn sứ được Thiên Chúa đọc cho chép (dictation) cách trọn vẹn bằng lời (verbal) được nhấn mạnh hơn vai trò khí cụ (instrument) hay thiên sứ của Thiên Chúa (messenger). 
Mọi điều lớn nhỏ trong Kinh Thánh đều được Chúa Thánh Thần đọc cho chép (Melchior Cano) à 5 hệ quả: (i) tất cả Kinh Thánh là Lời Chúa; (ii) mọi lời Kinh Thánh đều đúng đắn; (iii) sự thật của Kinh Thánh là mệnh đề tối hậu; (iv) tính thống nhất của Kinh Thánh vượt trên đối nghịch thật sự trong bản văn; (v) Kinh Thánh chính là Mặc Khải.
Phản tĩnh: (i) làm sao chuyển tải Lời Chúa không lời? (ii) chẳng lẻ không có những biến cố mặc khải trong lịch sử cứu độ sao? (iii) Liệu có thể phủ nhận Kinh Thánh được hình thành trong tiến trình tạo thành bản văn qua quan sát?

IV.   Linh ứng thật sự phải hiểu như thế nào?

Giáo Hội Công Giáo thế kỉ XIX bắt đầu chấp nhận phê bình bản văn Kinh Thánh dựa trên việc phê bình bối cảnh bản văn qua phương pháp nghiên cứu phê bình lịch sử, vốn là hệ luận của khoa học vật lý và lịch sử à các bản văn có bối cảnh khác nhau dẫn đến cách chuyển ngữ khác nhau, các bản văn được viết ra dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và phê bình không thể đi ngược lại với nội dung chân lý của Kinh Thánh (bản văn chuẩn CODEX) à Giáo Hội Công Giáo lưu giữ giáo huấn về linh ứng lẫn nguyên tắc của tri thức khoa học.
Linh ứng: Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong tác giả nhân loại để nội dung Thánh Kinh không thể bị sai lạc (Lesius, J. Jahn, D.B. Haneberg) à Thánh Kinh được quy điển vì chính Thiên Chúa là tác giả và được chính Giáo Hội lưu truyền (Vatican I – Pope Leo XIII).
Linh ứng: là món quà đính kèm theo Verbum Scriptum (Lời Kinh Thánh) (J.H. Newman) à cần phân biệt nội dung và hình thức (J. B. Franzelin). Kinh Thánh hoàn toàn là công trình của Thiên Chúa và của tác giả nhân loại (Lagrange).
Tính bất khả sai lầm của Kinh Thánh không được nhấn mạnh trong Giáo Hội Công Giáo nhưng được chú trọng trong phái Thệ phản bảo thủ à Kinh Thánh không thể sai lầm trong giá trị bản văn chứ không phải theo từng câu chữ.

V.     Linh ứng cần được tiếp cận như thế nào?

Cần xác định ơn linh ứng và cách thức Thiên Chúa linh ứng như thế nào (lý thuyết đồng tình của phái thệ phản). Thiên Chúa linh hứng như thầy giáo giỏi và học sinh tốt (consequent behavior) – quả lỏng lẻo. Linh ứng: xác nhận khả năng Thiên Chúa dùng Kinh Thánh để mặc khải cho con người (K. Barth).
Linh ứng được chú trọng qua 4 khía cạnh (Công giáo): (i) lý thuyết tâm lý – động lực thúc đẩy (Benoit); (ii) lý thuyết xã hội: Thiên Chúa hoạt động trong cộng đoàn (McKenzie, McCarthy, Rahner); (iii) tiếp cận bản văn – nhấn mạnh chiều kích viết và đọc (Calvin, Barth); chiều kích Giáo Hội: tương quan giữa Giáo Hội và Kinh Thánh (Rahner)

VI.   Xác nhận linh ứng để làm gì?

Giáo Hội: linh ứng xác nhận thẩm quyền cho Kitô giáo và giáo hội
Lời Chúa: Kinh Thánh thật sự là Lời của Thiên Chúa – (i) biến cố lịch sử cứu độ, (ii) sứ điệp Chúa truyền qua ngôn sứ và Chúa Giêsu, (iii) ngôi vị Chúa Giêsu – Ngôi Lời, (iv) rao giảng của Kitô giáo, (v) sứ điệp chung của Thiên Chúa cho con người, (vi) Thánh Kinh.
Tương lai: mở ra công trình lý thuyết hóa linh ứng không chỉ giới tri thức mà cho muôn dân.

Tuesday, September 10, 2019

Bài Tóm: Bài Giảng và Bối Cảnh Phụng Vụ


Nội dung: Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích. Chỉ Nam Giảng Lễ. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2015). Trang 14-48.


Chi tiết:

I.   BÀI GIẢNG - tuanbmt987@gmail.com

A. Bài giảng là gì

o Thành phần của phụng vụ vì bài giảng nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu.
o Đồng thời, bài giảng là một hành vi thờ phượng, chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa.

B. Bản chất của bài giảng

-     Bản chất đặc thù của bài giảng là sự cảm nhận Lời Chúa nói với chúng ta trong đời sống hiện tại của mình hay hôm nay Thiên Chúa nói với dân của Người và họ đáp trả (LC 52). Và giúp ta hiểu hơn chức năng đặc biệt của nó (không phải là bài thuyết trình hay bài diễn văn, hay một bài dạy giáo lý). Nhưng bài giảng phải được đặt trong bối cảnh của cử hành phụng vụ. Bởi trong bối cảnh cử hành phụng vụ cho phép chúng ta lắng nghe Lời Chúa và đỉnh điểm là sự hiến tế của Chúa Kitô dâng lên Chúa Cha hằng hữu.
-     Bài giảng còn mang ý nghĩa chiều kích của bí tích vì chính Người đang hiện diện và ngỏ lời với chúng ta để được chúng ta lắng nghe.
-     Những người có quyền công bố Lời Chúa chính là các giám mục, linh mục và phó tế hay là những người lãnh chức thánh (X. Huấn thị Repdemptionis Sacramentum, 161) bởi vì bản chất sâu xa mang tính phụng vụ là để thờ phượng Thiên Chúa.
-     Trong bài một bài giảng lễ, linh mục có thể kết hợp với những câu chuyện chứng tá cá nhân, giáo huấn về đạo lý, chú giải Kinh Thánh nhưng những điều đó phải được nối kết hợp lý với chủ đề của các bài đọc Kinh Thánh và giáo lý Giáo Hội.
-     Cuối cùng, bài giảng cần phải đáp ứng các nhu cầu của một cộng đoàn đặc thù, và được gợi hứng từ sự quan tâm đó. Trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, ĐGH Phanxicô nói như sau:
o Người giảng phải biết lắng nghe đức tin của dân và giảng như thế nào.
o Người giảng phải biết nói gì để tìm ra cách phù hợp với trình độ khác nhau của cộng đoàn (giới trẻ, thiếu nhi, hiền mẫu).
o Dùng ngôn ngữ “nền văn hóa mẹ đẻ” để tim ta sẵn sàng lắng nghe hơn.

C. Mục đích của bài giảng là gì?

o Bài giảng giải thích mầu nhiệm đức tin và các quy tắc của đời sống Kitô giáo.
o Bài giảng nhằm mục đích làm cho LỜI CHÚA trở nên “Lời rao truyền các việc kỳ diệu của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ, tức là mầu nhiệm Chúa Kitô (PV, 35).
o Bài giảng dẫn dắt cộng đoàn tín hữu tới việc cử hành Thánh Thể cách tích cực, để họ diễn tả trong cuộc sống điều mà họ đã lãnh nhận đức tin. (PV 10).
-     Bài giảng trong thánh lễ bao hàm một năng động vừa đơn giản vừa lôi cuốn.
o Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô được loan báo qua các bài đọc và giảng lễ.
o Mầu nhiệm Vượt Qua được hiện tại hóa qua hy tế thánh lễ (giúp họ ý thức rằng, khi tham dự cử hành này, họ thật sự chia sẻ mầu nhiệm cái chết và sự sống lại của Chúa).
o Cuối cùng, chuyển động thứ ba là bài giảng lễ có tính chất thánh hóa cộng đoàn tín hữu qua đời sống thực của họ.
o Nói tóm lại, bài giảng lễ là sự suy tư về ý nghĩa của các bài đọc và các lời nguyện của một buổi cử hành, cũng như dẫn đưa cộng đoàn đến Phụng Vụ Thánh Thể, nơi mọi người được tham dự vào chính mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.


II. GIẢI THÍCH LỜI THIÊN CHÚA TRONG PHỤNG VỤ - paulkien89@gmail.com


Dân Chúa được quy tụ trước tiên là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống, lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục… Do đó, các linh mục, vì là cộng sự viên của các Giám mục, nên trước tiên có nhiệm vụ loan báo cho mọi người Tin Mừng của Thiên Chúa” (Sắc lệnh về tác vụ và đời sống các linh mục, 4). Làm thế nào để rao giảng chân lý Phúc Âm cách hiệu quả?
a. Bám sát vào các bài đọc trong thánh lễ (x. hiến chế PV, 52).
·    Tham khảo các sách chú giải kinh thánh
·    Các lời nguyện khác nhau trong buổi cử hành
ð     Bài giảng phải được múc lấy từ nguồn thánh kinh và phụng vụ, công bố những kỳ công của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ hay trong mầu nhiệm Chúa Kitô. Chính mầu nhiệm này hằng hiện diện cách thiết thực và tác động trong chúng ta, nhất là trong các cử hành phụng vụ (x. PV, 35).
ð     Các bản văn thánh không những là bài đọc thánh kinh, mà còn cả các bản văn được dùng trong phần thường lễ hay phần lễ riêng của ngày hôm đó.
2.1.                    Nội dung và tính thống nhất của toàn bộ kinh thánh
a. Bộ kinh thánh
·    Tuy khác biệt nhau, nhưng kinh thánh vẫn là một vì kế hoạch của Thiên Chúa là duy nhất, Đức Kitô Giêsu là trung tâm và trái tim của kế hoạch ấy, một trái tim mở ra từ cuộc Vượt Qua của ngài. (số 17.1)
·    Mầu nhiệm Vượt qua vén mở ý nghĩa của kinh thánh. Vị giảng lễ phải giúp các tín hữu đọc kinh thánh dưới ánh sáng của mầu nhiệm VQ, sao cho Đức Kitô mặc khải cho họ nội dung của thánh kinh (số 18).
b. Tính thống nhất nơi chính cấu trúc sách bài đọc.
·    Thể hiện nơi chính cấu trúc của sách bài đọc trong suốt năm PV theo chu kỳ 3 năm. Lưu ý: Sách bài đọc chỉ chứa khoảng 13% bộ thánh kinh, gồm 6% Cựu Ước và 41% Tân Ước.
·    Theo mùa PV lớn: Tam Nhật VQ (trung tâm của năm PV) được chuẩn bị bởi sách bài đọc Mùa Chay, được khai triển nhờ sách Bài đọc Mùa Phục Sinh. Tương tự với chu kỳ Mùa Vọng – Giáng Sinh – Hiển Linh.
·    Nơi sách Bài đọc Chúa Nhật và sách Bài đọc lễ trọng và lễ kính. Bài đọc Cựu Ước được chọn dưới ánh sáng của bài Tin Mừng[1]; Thánh vịnh Đáp ca, tung hô TM được gợi hứng từ bài đọc đi trước.
§ Thánh lễ Chúa Nhật: bài đọc I rút từ CƯ[2] (mùa PS trích sách Cv); bài đọc 2 trích các thư thánh Phao lô được đọc bán liên tục (hoặc từ sách Khải huyền, tùy mùa); chúng ta có thể tìm thấy mối liên hệ giữa bài đọc 2 này với bài Cựu Ước và bài Tin Mừng.
ð     Sách Bài đọc mời gọi vị giảng lễ nhận ra các bài đọc Kinh thánh soi sáng lẫn nhau. Nói cách khác là làm nổi bật mầu nhiệm Chúa Kitô và lịch sử cứu độ.
ð     Sách bài đọc giúp cộng đoàn tiếp cận thánh kinh nhiều hơn nhưng không có nghĩa là toàn bộ thánh kinh.
2.2.                   Truyền thống sống động của toàn thể hội thánh
·    Kinh thánh được viết trên trái tim của hội thánh hơn là trên tài liệu vật chất” (châm ngôn các giáo phụ). Chúa Thánh Thần ban cho hội thánh khả năng giải thích kinh thánh theo nghĩa thiêng liêng (GLCG 113) (số 17.2). “Nơi phát sinh ra việc giải thích kinh thánh là đời sống của Giáo hội” (LC 29).
·    Hiện tại hóa Lời Chúa: Thông truyền ý nghĩa cho con người đương thời hôm nay.
2.3.                   Tính tương hợp của Đức tin
·    Nghĩa là sự gắn kết hài hòa giữa các chân lý đức tin với nhau và trong toàn bộ mặc khải (số 17.3). Mối dây liên kết giữa các đạo lý và hệ trật các chân lý đức tin (số 21).
·    Trong mầu nhiệm cuộc VQ mà mọi “lời kinh thánh đều được hoàn tất”. Mầu nhiệm đức tin tập trung vào Chúa Giêsu Kitô nhờ cuộc VQ của Ngài công cuộc hòa giải nhân loại với TC được hoàn thành. Đó là mầu nhiệm vượt tầm trí hiểu của con người nhưng TC đã tỏ cho ta biết.
·    Liên kết các mầu nhiệm đức tin với những quy tắc đời sống kitô giáo.
a.    Phụ lục I của Chỉ Nam Giảng Lễ
b.   Nghĩa thiêng liêng của Kinh thánh dưới tác động của Chúa Thánh Thần (LC 37); tham khảo nơi các giáo phụ (bộ Catena Aurea), nơi các Thánh Vịnh trong các giờ Kinh phụng vụ, nơi việc đọc và suy gẫm Sách thánh.
a.    Bài giảng không nhằm trình bày những giáo thuyết trừu tượng hoặc hệ thống các giáo điều nhưng phải khởi đi từ các bản văn thánh để trình bày kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa vốn được chuẩn bị trong Cựu Ước, được hoàn thành nơi Chúa Kitô và tiếp diễn trong đời sống giáo hội.
b.   Cấu trúc sách bài đọc: các bài Tin Mừng được chọn theo nguyên tắc liên tục và bán liên tục (ví dụ đọc TM Luca từ Chúa Nhật này sang Chúa Nhật khác). Bài đọc Cựu Ước theo nguyên tắc hòa hợp.
c.    Theo 3 tiểu chuẩn
a.    Trong bài giảng có chiều kích huấn giáo, vậy có nên đưa giáo lý vào bài giảng? trong bối cảnh ngày nay nơi các giáo xứ có nhiều tín hữu thiếu nền tảng giáo lý vững chắc, cho dù, nhiều khi chủ đề giáo lý không liên hệ gì đến những bài thánh kinh được chọn.
b.   Đôi khi ba bài đọc không cùng chủ đề, phải giảng như thế nào?
QA:
1. Phân biệt bài giảng vs. bài chú giải, giáo lý?
ü Đối tượng và bối cảnh phụng vụ
ü Bản chất đặc thù: cảm nhận Lời Chúa à hiện tại hóa
ü Nội dung: Bài giảng – đã có sẳn, theo mục đích giáo dục Đức Tin của Giáo Hội vs. Chú giải/giáo lý – có thể chọn và trình bày theo mục đích chú giải/giảng dạy giáo lý.
2. Xác định nguồn quy chiếu như thế nào cho phù hợp và thống nhất: Lời Chúa – Bài đọc I, II, Đáp Ca, Lời Nguyện Giáo Dân trong truyền thống sống động của Giáo Hội Công Giáo?
ü Cần đọc trong bối cảnh thống nhất chung.
ü Thánh Kinh vs. Thánh Truyền – truyền thống lưu truyền Mặc Khải: Giáo Hội tuyên xưng đức tin, Giáo Hội sống, Giáo Hội giải thích, Giáo Hội cầu nguyện à truyền thông sống động: không chỉ trong văn tự mà còn trong đời sống của Giáo Hội.
ü Bài giảng cần trích thêm các văn bản của Giáo Hội.
3. Bài đọc được chọn như thế nào khi Phụng Vụ chưa được hình thành và phát triển?
ü Cần đọc lại tài liệu về Phụng Vụ à tiến trình phát triển liên tục của Phụng Vụ.
ü Dựa theo kinh nghiệm và thống nhất chung à giáo hội địa phương à giáo hội hoàn vũ.
4. Cấu trúc của các bài đọc trong Năm Phụng Vụ liên hệ với cấu trúc trong chính bài đọc và các bài đọc như thế nào?
ü Theo một chủ đề thống nhất của Phụng Vụ à ưu tiên về các mầu nhiệm mà đỉnh cao là Mầu nhiệm Vượt Qua à củng cố đời sống tương giao với Thiên Chúa với anh chị em chung quanh.
ü Bài đọc I (Cựu Ước) + Phúc Âm – Ý chính : Trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa làm cho ta (mầu nhiệm Thiên Chúa : kỳ công/công trình của Thiên Chúa đã làm cho ta). Cựu Ước – chuẩn bị; Tân Ước – kiện toàn à để hiểu Tân Ước cần đọc lại Cựu Ước.
ü Đáp Ca: Tâm tình cảm tạ/ngợi khen à Tân Ước
ü Bài đọc II (Thánh Thư) – Hành động: Mang tính mục vụ
5. .

III. VIỆC CHUẨN BỊ - ngngoctan@gmail.com

·    “Chuẩn bị giảng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đòi chúng ta phải dành một lượng thời gian dài cho việc học hỏi, cầu nguyện, suy tư và sáng tạo mục vụ” (NVTM, 145)
·    “Một vi giảng lễ mà không chuẩn bị, không cầu nguyện, thì là một người bất lương và vô trách nhiệm(NVTM, 145), là một ngôn sứ giả, một kẻ lừa đảo, một kẻ huênh hoang trống rỗng” (NVTM, 151)
·    Người giảng lễ: thông truyền (phân phát) lương thực thiêng liêng à không huênh hoang, ngỏ lời + lắng nghe, chịu “thương tích” à Lời Chúa thấm nhập vào thính giả (s. 26)
-     Các câu hỏi nằm lòng: Lectio – Tự nó, bản văn muốn nói gì với chúng ta? Meditatio – Bản văn Kinh Thánh muốn nói gì với chúng ta? Oratio – Ta phải nói gì với Chúa để đáp lại lời Người? Contemplatio – Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải hoán cải tinh thần, con tim và đời sống như thế nào? à Actio – hành động.
-       Phương pháp Lectio Divina rất quan trọng và cần được sử dụng (s. 28)

Lectio Divina: đọc, suy niệm, cầu nguyện và chiêm niệm + Actio: Hành động
Lectio
-    tham khảo chú giải, tự điển và các nghiên cứu; (2) bối cảnh bản văn: đầu – cuối; (3) đặt trong lịch sử cứu độ à dấu chỉ thời đại (s. 29)
-    rút ra sứ điệp chính yếu (s. 30)
-    Ngôn từ – “đơn sơ, sáng sủa, cụ thể, thích ứng với hoàn cảnh con người” à tránh ngôn từ thần học chuyên biệt, xa lạ à sử dụng hình ảnh (s. 31)
Meditatio
-    Lạy Chúa, bản văn này muốn nói gì với con? Với sứ điệp này, Chúa muốn thay đổi gì trong cuộc sống của con? Điều gì làm cho con khó chịu trong bản văn này? Tại sao bản văn này không gây thích thú gì cho con? Điều gì làm cho con vui thích, điều gì làm cho con hài lòng trong bản văn này? Điều gì lôi kéo con? Tại sao lại lôi kéo con? à suy niệm trong mầu nhiệm Vượt Qua à nhận ra hàm ý luân lý + đạo lý của Lời Chúa. (32)
-    Bối cảnh cộng đoàn: chiêm niệm Lời Chúa + giáo dân à chú tâm lắng nghe dân chúng à anh chị em cần nghe gì (bối cảnh giáo xứ)? è chuẩn bị trong thời gian dài: suy tư phản tỉnh (33)
Oratio
-    đối thoại tự phát à ngôn từ kính sợ + kinh ngạc à ca tụng, yêu mến, và tạ ơn: suy niệm à cầu nguyện ~ bản văn Kinh Thánh à các phần khác: mời gọi đáp lời. Mỗi thánh lễ chỉ có một bài giảng mà thôi.
Contemplatio
-    ân ban: kết hợp với Chúa à cầu xin Chúa Thánh Thần à hạt giống lời Chúa nảy mầm và trổ sinh hoa trái trong Thiên Chúa hơn là trong ý tưởng phàm nhân
Actio
-    dâng hiến đời mình à lời mời gọi ra đi/ lên đường dành cho toàn thể dân Chúa

QA:
1. Việc chuẩn bị
ü Học hỏi
ü Đọc Lời Chúa trong tâm tình cầu nguyện – thấm nhập vào mình. Bước chuẩn bị là bước giảng lễ:
                   i.         Đọc/Xem – Điểm nhấn: Câu chốt – từ chốt à mở ý nghĩa bản văn
                 ii.        Suy niệm - Xét:
              iii.        Cầu nguyện/Cảm nhận: Chúc tụng ngợi khen
              iv.        Chiêm niệm: thấm nhập vào mình
                 v.        Hành động: áp dụng cho tôi và cho thính giả
ü Quá trình soạn giảng
2. Liên kết Lectio Divina vs. Open Head – Open Heart – Open Hand


[1] Theo nguyên tắc hòa hợp nhằm làm nổi bật sự duy nhất giữa CƯ và TƯ cũng như tính duy nhất của lịch sử cứu độ, trong đó Chúa Kitô là trung tâm.
[2]