Mọi hành vi nhân linh đều mang tính thần linh. Bổn phận thừa tác viên là
đạo đức trong tính cách và hành động, có khi cần hơn cả luân lý thông thường. Họ
cần có “quy ước đạo đức”, nhất là quy
ước đạo đức cá nhân (personal code of ethics)
I.
Nền Tảng Thần Học
Đặt Thiên Chúa là trung tâm và là chuẩn mực luận lý, mỗi người cần thái
đội trung dung trong luân lý, “bất cứ thánh nhân nào cũng có một quá khứ, bất cứ
tội nhân nào cũng có một tương lai” và cần đọc thông điệp Veritatis
Splendor (VS) để lấy
nền tảng. Chúng
ta cần có đức tin mạnh mẽ như Araham – vẫn hy vọng khi không còn gì để hy vọng
và cần biết khôn ngoan gởi những người cần đến những người có thể giúp họ, đừng
ôm hết vào mình.
1. Sứ vụ: ơn gọi hay nghề nghiệp?
Ơn gọi lắng nghe
từ Thiên Chúa thông qua cộng đoàn nên ơn gọi không mang tính phục vụ lợi ích cá
nhân mà cộng đồng, qua danh Giáo hội. Một lần nữa cần đặt Thiên Chúa và lợi ích
tha nhân lên trên để đối mặt với mệt mõi do thời gian hay do bất hòa trong cộng
đoàn.
Nghề nghiệp đòi
hỏi “học hỏi, đổi mới, và tiêu
chuẩn hóa một số vấn đề như trách nhiệm, bí mật cá nhân, quyền lực, kỹ năng
chuyên môn” nên không
làm mất đi giá trị của sứ vụ mà còn giúp thăng tiến theo chiều kích ơn gọi.
Truy nguyên, “profession
– profess” có nguồn gốc tôn giáo, tuyên hứa phục vụ chuyên nghiệp. Ơn gọi dâng
hiến được đáp trả bằng việc tuyên khấn thì khía cạnh nghề nghiệp đòi hỏi sự sóng
đôi giữa ‘lời khấn’ và ‘thực hiện lời khấn’. Lời mời gọi chuyên môn hóa “being
professional” giúp thăng
tiến cả khía cạnh ơn gọi lẫn nghề nghiệp.
2. Ba điểm đạo đức thần học then chốt
a. Sứ vụ là một Giao Ước
Giao ước hay hợp
đồng?
Điểm quan trọng
là ‘chỉ ra sự đồng ý và trao đổi giữa hai bên’, ‘cả hai có
các bổn phận để bảo vệ nhân phẩm và chặn đứng khuynh hướng nhắm thuận lợi cho
cá nhân’. Hợp đồng thì rõ ràng
về: ‘giới hạn của con người’, ‘quyền lợi
và nhiệm vụ’, ‘thể loại và số lượng công việc’. Còn giao ước được ủng hộ
vì:
ü
Thiên Chúa làm trung tâm, và mục vụ cần sự uyển chuyển với thái độ phục vụ ‘nhưng không’
ü
Hồng
ân đáp đền hồng ân với yêu thương thật sự ‘cần
có những biện phân luân lý và cái nhìn, sự nhạy cảm của một con người nhân đức’
Tất cả là hồng ân – gặp người bệnh rất khó thở ta mới
nhận ra hồng ân được thở hằng ngày và không có việc gì nhỏ trước mặt Thiên
Chúa, tất cả đều được Chúa đón nhận nếu nó đến từ chính trái tim.
Nền tảng Kinh
Thánh về mô hình giao ước:
ü
Sự tự do dấn thân, được thúc đẩy bởi tình yêu
ü
Tôn trọng nhân vị, và phẩm giá
ü
Tin cậy lẫn nhau
Sự thánh thiện và tình yêu
không gì lay chuyển là
hai đặc tính của giao ước trong Thiên Chúa.
Hãy làm ngược lại những gì không hay, không tốt. To be is more important
than to have.
b. Con người là hình ảnh Thiên Chúa
“Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và
dần dần chúng ta được biến đổi hoàn thiện theo hình ảnh’ là quan điểm thần học ‘nền tảng cho truyền thống đạo đức Công Giáo’. Con người được trân trọng trong tương quan người ấy với Thiên Chúa, mang hình ảnh của chính
Thiên Chúa. Chúng ta phục vụ trong sự ‘chia
sẻ các món qùa tài năng cá nhân’ từ hồng ân Thiên Chúa nhờ lý trí đúng đắn
(luật tự nhiên).
c. Tính môn đệ
Thiên Chúa là một con người lịch sử nên có nhiều điểm
chúng ta khó lòng noi gương bắt chước. “Sự
bắt chước đích thật là sống trong tinh thần của Chúa Giêsu”. Để bắt chước, chúng ta được mời gọi tìm ra ‘con đường riêng cho’ chính mình.
Giêsu chưa bao giờ bắt buộc một ai dù là điều rất tốt,
Người ban cho những ai theo Người tự do. Phải chăng người theo Chúa lại muốn lấy
đi tự do của anh em mình dù với một trái tim bao dung?
Tính cách người môn đệ Chúa Giêsu Kitô:
ü
Không: tìm cách phấn đấu cho sự vĩ đại cá nhân; tìm trở
thành trung tâm cho sự chú ý hay ép buộc người khác suy nghĩ mình
ü
“con
đường lãnh đạo tôi tớ”, không lạm dụng quyền lực của Ngài để ảnh hưởng người
khác thay đổi
ü
diễn
tả uy quyền: đời sống phục vụ và chăm sóc cho tha nhân; phép lạ -
giải phóng, dụ ngôn – nhận định đảo ngược, sau – trước, thấp – cao.