Wednesday, September 27, 2017

CHIẾC ĐỒNG HỒ BỊ MẤT - Sự Thing Lặng (Collection)


Một lần nọ, có một người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó không phải là một cái đồng hồ thông thường bởi nó còn có giá trị về mặt tình cảm đối với ông.
Sau một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, người nông dân phải nhờ sự trợ giúp của những đứa trẻ đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị mất sẽ được thưởng.
Nghe thấy vậy, đám trẻ con nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp nơi, lục tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến tận cả chỗ cho gia súc ăn, nhưng vẫn không thấy. Chỉ đến khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có bé trai chạy tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.
Người nông dân nhìn đứa bé và nghĩ: “Tại sao lại không chứ? Sau tất cả thì cậu bé này có vẻ khá chân thành”. Ông dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra và trên tay là chiếc đồng hồ của ông. Người nông dân rất hạnh phúc và ngạc nhiên, ông hỏi cậu bé: “Làm cách nào mà cháu có được nó, sau khi tất cả các bạn khác đã từ bỏ?”.
Cậu bé đáp: “Cháu không làm gì cả và chỉ ngồi im một chỗ để lắng nghe. Trong im lặng, cháu thấy tiếng kim đồng hồ chạy và theo đó cháu tìm ra nó”.
Sự tĩnh lặng trong tâm hồn có thể sẽ tốt hơn so với một trí não luôn hoạt động. Hãy để cho tâm trí của bạn những phút giây nghỉ ngơi, thư giãn hàng ngày. Và hãy xem, sự hiệu quả mà nó đem lại khi giúp bạn xây dựng cuộc sống hằng mong đợi của mình.

Nguồn: dulich@carnivalvn.com.vn

Wednesday, September 20, 2017

TIẾN SĨ VÀ NGƯỜI ĐÁNH CÁ (Collections)


Một ngày nọ, có một vị tiến sĩ ngồi trên thuyền ngắm cảnh, trên thuyền tiến sĩ hỏi người đánh cá: “Ông có biết gì về sinh học không?”, người đánh cá nói không, vị tiến sĩ lại hỏi: “Vậy cuộc đời ông mất đi 1/4 rồi”.
Một lúc sau vị tiến sĩ hỏi: “Ông có biết gì về triết học không?”, người đánh cá trả lời không, vị tiến sĩ lại nói: “Vậy thì cuộc đời ông mất đi 1/2 rồi”.

Rồi một lúc sau, vị tiến sẽ lại hỏi: “Ông có biết về khoa học không?”, người đánh cá vẫn trả lời không, đúng lúc này đột nhiên cuồng phong kéo đến, gió thổi mạnh làm mọi thứ chao đảo, bay tung lung cả lên, một cơn sóng lớn sắp ập tới. Người đánh cá hỏi vị tiến sĩ: “Ông có biết bơi không?”, vị tiến sĩ nói không, người đánh cá nói: “Vậy thì đời ông hết rồi!”.

BÀI HỌC.
Không sợ cái gì cũng biết, chỉ sợ một cái không biết. Trong công việc đôi khi bạn chỉ cần tinh thông một chuyên môn nào đó là đủ rồi. Nên mới có câu tục ngữ: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Mỗi người đều có một vai trò khác nhau trong xã hội, không thể ai ai cũng giống nhau.

Monday, September 18, 2017

Cấu Trúc Bí Tích: Lời Và Sự Vật (Noted)



Tài liệu: Giuse Đỗ Xuân Vinh. Thần học Tín lý: Bí Tích Tổng Quát. ĐCV Giuse Sài Gòn. 2017. Tr. 100-104


1. Vài nét lịch sử tính của cấu trúc bí tích





2. Giáo huấn của Hội Thánh cùng đôi nét cố gắng diễn tả

J-P. Revel đã nêu lên khó khăn về mô hình Chất – Mô qua ba vấn đề: logic hóa (giảm mầu nhiệm), vật chất hóa (duy chất thể - duy mô thể: mất ý nghĩa phụng vụ), gượng ép (vấn đề trong bí tích Hôn Phối và Thống Hối).
Trong Verbum Domini (53)[3], Benedictus XVI cho thấy mối tương quan gắn kết chặt chẽ (unity): giữa Lời Bí Tích, Lời và cử chỉ bí tích. Bởi vì hai yếu cùng diễn tả một thực tại đó là hoạt động cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại. Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ nói mà còn hành động. Nói cách khác ‘Lời đang thực hiện điều Lời nói.’ Đây là hai yếu tố làm nên đặc tính performatif – performative (đặc tính trình diễn: trình bày và thực hiện) của Lời.
Theo Ủy Ban Thánh Kinh Giáo Hoàng,[4] trong việc cử hành các bí tích của Giáo hội thì phần phụng vụ Lời Chúa luôn có yếu tố quyết định (decisive element). Điều này đã được L-M. Chauvet giải thích qua việc trình bày vai trò cốt lõi của Lời khi diễn tả cấu trúc bí tích. Theo đó, ông cho rằng Lời có ba cấp độ ý nghĩa: (i) Lời là chính Đức Giêsu Kitô – Ngôi Lời Nhập Thể, và là chủ thể chính trong việc cử hành các bí tích; (ii) Lời là Lời Chúa được viết ra trong Kinh Thánh và được đọc khi cử hành bí tích; (iii) Lời là Lời Bí Tích được thừa tác viên của Hội Thánh công bố nhân danh Đức Giêsu Kitô. Áp dụng điều này, ông cho rằng cấu trúc của bí tích dựa trên Lời: (i) nội dung được nói ra (Lời Chúa); (ii) hành vi nói qua trung gian thừa tác viên (Chúa Kitô); (iii) hiệu quả bí tích (ân sủng cứu độ).

Nhận định và Kết luận:
+ Thomas Aquinas (chất – mô) đã linh hoạt và hợp thời, liệu có phải đã lỗi thời?!
+ Giáo hội:
ü  Chỉ một lần dùng chất – mô để định tín (Armenie), ngoài ra dùng lời và sự vật.
ü  Chưa bao giờ định tín Đức Tin Kitô giáo xây dựng trên triết học Aristotle (nó chỉ là phương tiện)
ü  Đức tin đặt trên nền tảng mặc khải
+ Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1115:
ü  Các mầu nhiệm cuộc đời Đức Giêsu được chuyển vào trong các bí tích,
ü  Các bí tích được cử hành và làm phát sinh hiệu quả bí tích qua trung gian các thừa tác viên của Hội Thánh.





[1] SC (PV) 59. “Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô, và sau cùng, thờ phượng Thiên Chúa; vì là những dấu chỉ, các bí tích cũng có tác dụng huấn giáo. Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin, nhưng còn dùng lời nói và các vật thể hữu hình để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin, vì thế được gọi là các bí tích của đức tin. Thật vậy, các bí tích ban ân sủng, nhưng nghi thức cử hành sẽ giúp các tín hữu sẵn sàng đón nhận ân sủng đó cách hữu hiệu, thờ phượng Thiên Chúa cách thích đáng và thực thi đức ái. Do đó, điều rất quan trọng là làm sao cho các tín hữu dễ dàng hiểu được những dấu chỉ của các bí tích, và siêng năng lãnh nhận các bí tích đã được lập ra để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu.”
[2] “tất cả các Bí tích được làm nên bởi ba yếu tố: chất thể, lời nói làm mô thể và thừa tác viên với ý hướng làm điều làm điều Hội Thánh Làm” (DS 1312)
[3] Thật vậy, trong tương quan giữa Lời và cử chỉ bí tích, chính hành động của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện dưới hình thức phụng vụ qua đặc tính trình diễn (performatif, trình-bày-và-thực-hiện) của Lời. Trong lịch sử cứu độ, không có tách biệt giữa điều Thiên Chúa nói và làm; chính Lời của Ngài luôn sống động và hữu hiệu (x. Dt 4,12), như từ ‘dabar’ trong tiếng Híp-ri diễn tả rõ ràng. Cũng thế, trong hành động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời của Ngài, Lời đang thực hiện điều Lời nói. (VD 53)
[4] Pontifical Biblical Commission, The Interpretation of the Bible in the Church (15 April 1993) IV, C, 1: Enchiridion Vaticanum 13, No. 3123

Thursday, September 14, 2017

Lược Tóm: Đạo đức nghề nghiệp mục vụ tông đồ (Noted)


Đạo đức nghề nghiệp trong mục vụ tông đồ (Professional Ethics in Pastoral Ministry)  Trần Như Ý-lan biên soạn, phần chính lược dịch từ Richard Gula, Ethics in Pastoral Ministry, (New-York, Paulist Press), 1996

Mọi hành vi nhân linh đều mang tính thần linh. Bổn phận thừa tác viên là đạo đức trong tính cách và hành động, có khi cần hơn cả luân lý thông thường. Họ cần có “quy ước đạo đức”, nhất là quy ước đạo đức cá nhân (personal code of ethics)

I.     Nền Tảng Thần Học

Đặt Thiên Chúa là trung tâm và là chuẩn mực luận lý, mỗi người cần thái đội trung dung trong luân lý, “bất cứ thánh nhân nào cũng có một quá khứ, bất cứ tội nhân nào cũng có một tương lai” và cần đọc thông điệp Veritatis Splendor (VS) để lấy nền tảng.  Chúng ta cần có đức tin mạnh mẽ như Araham – vẫn hy vọng khi không còn gì để hy vọng và cần biết khôn ngoan gởi những người cần đến những người có thể giúp họ, đừng ôm hết vào mình.

1.   Sứ vụ: ơn gọi hay nghề nghiệp?

Ơn gọi lắng nghe từ Thiên Chúa thông qua cộng đoàn nên ơn gọi không mang tính phục vụ lợi ích cá nhân mà cộng đồng, qua danh Giáo hội. Một lần nữa cần đặt Thiên Chúa và lợi ích tha nhân lên trên để đối mặt với mệt mõi do thời gian hay do bất hòa trong cộng đoàn.
Nghề nghiệp đòi hỏi “học hỏi, đổi mới, và tiêu chuẩn hóa một số vấn đề như trách nhiệm, bí mật cá nhân, quyền lực, kỹ năng chuyên môn” nên không làm mất đi giá trị của sứ vụ mà còn giúp thăng tiến theo chiều kích ơn gọi.
Truy nguyên, “profession – profess” có nguồn gốc tôn giáo, tuyên hứa phục vụ chuyên nghiệp. Ơn gọi dâng hiến được đáp trả bằng việc tuyên khấn thì khía cạnh nghề nghiệp đòi hỏi sự sóng đôi giữa ‘lời khấn’ và ‘thực hiện lời khấn’. Lời mời gọi chuyên môn hóa “being professional” giúp thăng tiến cả khía cạnh ơn gọi lẫn nghề nghiệp.

2.   Ba điểm đạo đức thần học then chốt
a.   Sứ vụ là một Giao Ước

Giao ước hay hợp đồng?
Điểm quan trọng là ‘chỉ ra sự đồng ý và trao đổi giữa hai bên’, ‘cả hai có các bổn phận để bảo vệ nhân phẩm và chặn đứng khuynh hướng nhắm thuận lợi cho cá nhân’. Hợp đồng thì rõ ràng về: ‘giới hạn của con người’, ‘quyền lợi và nhiệm vụ’, ‘thể loại và số lượng công việc’. Còn giao ước được ủng hộ vì:
ü Thiên Chúa làm trung tâm, và mục vụ cần sự uyển chuyển với thái độ phục vụ ‘nhưng không’
ü Hồng ân đáp đền hồng ân với yêu thương thật sự cần có những biện phân luân lý và cái nhìn, sự nhạy cảm của một con người nhân đức’
Tất cả là hồng ân – gặp người bệnh rất khó thở ta mới nhận ra hồng ân được thở hằng ngày và không có việc gì nhỏ trước mặt Thiên Chúa, tất cả đều được Chúa đón nhận nếu nó đến từ chính trái tim.
Nền tảng Kinh Thánh về mô hình giao ước:
ü Sự tự do dấn thân, được thúc đẩy bởi tình yêu
ü Tôn trọng nhân vị, và phẩm giá
ü Tin cậy lẫn nhau
Sự thánh thiện và tình yêu không gì lay chuyển là hai đặc tính của giao ước trong Thiên Chúa.
Hãy làm ngược lại những gì không hay, không tốt. To be is more important than to have.

b.   Con người là hình ảnh Thiên Chúa

“Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, và dần dần chúng ta được biến đổi hoàn thiện theo hình ảnh’ là quan điểm thần học nền tảng cho truyền thống đạo đức Công Giáo’. Con người được trân trọng trong tương quan người ấy với Thiên Chúa, mang hình ảnh của chính Thiên Chúa. Chúng ta phục vụ trong sự ‘chia sẻ các món qùa tài năng cá nhân’ từ hồng ân Thiên Chúa nhờ lý trí đúng đắn (luật tự nhiên).

c.    Tính môn đệ

Thiên Chúa là một con người lịch sử nên có nhiều điểm chúng ta khó lòng noi gương bắt chước. Sự bắt chước đích thật là sống trong tinh thần của Chúa Giêsu”. Để bắt chước, chúng ta được mời gọi tìm ra ‘con đường riêng cho’ chính mình.
Giêsu chưa bao giờ bắt buộc một ai dù là điều rất tốt, Người ban cho những ai theo Người tự do. Phải chăng người theo Chúa lại muốn lấy đi tự do của anh em mình dù với một trái tim bao dung?
Tính cách người môn đệ Chúa Giêsu Kitô:
ü Không: tìm cách phấn đấu cho sự vĩ đại cá nhân; tìm trở thành trung tâm cho sự chú ý hay ép buộc người khác suy nghĩ mình
ü  “con đường lãnh đạo tôi tớ”, không lạm dụng quyền lực của Ngài để ảnh hưởng người khác thay đổi

ü diễn tả uy quyền: đời sống phục vụ và chăm sóc cho tha nhân; phép lạ - giải phóng, dụ ngôn – nhận định đảo ngược, sau – trước, thấp – cao.

Why is knowledge better than true belief?


Human being are searching for knowledge and have a doctrine of knowledge is “epistemology”. How we gain knowledge? An empiricist, John Locke said that our minds are in state of Tabula Rasa, a blank slate when we were born. By experience things through our senses, we will fulfill our empty of all ideas and concepts. After that, we will have more complex concepts by grouping simple concepts together. In contract, Descartes said that some concepts can be gained without experience such as mathematics. By harmony, Immanuel Kant, a great German Philosopher, raised out his own theory by arguing that we are all born with certain innate concepts. We cannot experience the world without them. There is just an over view to see the difference in the journey to gain knowledge. In this journey, human try to find the value of knowledge in comparison with true belief by raised out the question “why is knowledge better than true belief?” This essay will try to answer this question by (1) definition of technical terms, (2) comparison between knowledge and true belief, (3) some values of knowledge.
First, what is true belief? It is a belief was correct in a reality. For example, “it is raining” is a belief in our thinking and it is raining outside of a room when we see by our eyes. It is just simple as we take out the quotation marks by reality. In another word, thinking of a person or proposition is in case. From this, can people accept it as a definition of knowledge? The answer is in the “beginning with Plato, epistemologists have rejected this definition.”[1] By the time, they tried to find the right definition and accepted that knowledge is justified true belief (JTB). In 1963, Edmund Gettier raised a question “is justified true belief knowledge?” by offering “two convincing counterexamples to the justified true belief account of knowledge.”[2] He challenged epistemologists to find out other definition such as true belief plus X. What is X? It is still in a process to the best definition. In this writing, I just use the word knowledge as true belief plus X. In detail, there are three kinds of knowledge: “acquaintance knowledge, which knowing a place, person, or thing; ability knowledge, which knowing how to do something; and propositional knowledge, which knowing that a proposition is true.”[3]
Second, what is difference between knowledge and true belief? At the beginning, there is a comparison between true and false belief. This is the benefit of them. It is easy to realize that a true belief is better than a false belief. For example, “it is raining” is true that it is raining. The benefit that you have to wear raincoat or you will stay at home. If it is false, you will confuse to decide what to do. It same to me that true belief is “just as useful as knowledge”[4]. However, in Plato’s Meno, I recognize that you think you know such as true belief is different with you know as knowledge. For instance, my brothers in community will think that they know the way to Saint Joseph Scholasticate by my knowledge as their true belief. However, they will never know the way as their knowledge if they have never gone to it. What will happen if there is some problem in the street when they go in the first time? It is to answer that they will contact me who know the way not only a true belief but also knowledge. According to Plato, knowledge is more valuable than true belief because true belief become a piece of knowledge when they are anchored.[5] That is one of differences between them. In my opinion, I find out the difference between true belief and knowledge when I look at the result of them, especially in science. We all believed that the sun orbits the earth in Pre-Copernican world-view as true belief. After that, we know that the sun is the center of Solar System as a part of knowledge. It is seem to know that we had knowledge after true belief by new science evidence. In this example, I want to say that the true belief is less than knowledge. In addition, there are many global issues such as environmental pollution, war, human right because we just have true belief not knowledge. We believed in new science as true belief and we destroy the world to serve ourselves more than contact with it. For example, we build many industry parks and then we face with a problem of global warming. There is a photo of “new evolution” that human come from ocean and now we throw the rabid to it as a circle. It same to me that human just have a part of knowledge as a true belief more than knowledge in itself. Therefore, I realize that what we have as knowledge just thinking or some part of knowledge which is correct in a particular space and time.
Finally, there is some value of knowledge for it better than true belief. Aristotle said, “All men by nature desire to know”[6] In my opinion, it means that human nature cannot accept some simple correct thinking such as true belief. In another word, all people desire to have knowledge with understanding because “knowledge is so much more highly valued than true belief.”[7] For example, someone desire to be excellence, he or she must have knowledge of excellence to guide his or her actions. If they only have true belief, their action will be sometime right, be wrong in another time.[8] In addition, human being is “a human rational agent – it means to act in the world to achieve goals or ends.”[9] Even thought true belief can help us to do that, but we cannot get the final ends just by it only. Moreover, Linda Zagzebski claimed that knowledge is one of most important key to link the word and ourselves.[10] She gave an example that love draws us out of ourselves and opens us to the others. What will happen if we just live in our “shells” with no love? We will follow solipsism, which is “an extreme form of subjective idealism that denies that the human mind has any valid ground for believing in the existence of anything but itself.”[11] It cannot happen because human nature is social being and human being is not an island. If we accept with Linda Zagzebski, we also answer to the skeptics “who claims that knowledge is not possible” that “we have knowledge”. Furthermore, by Nozick’s Experience Machine[12], I know that to keep in touch with the world is very important. By the knowledge of reality, we can contact with the real world and we will no more in the machine as hedonism. We do not know what happiness really is, however it cannot be pleasure only. People can live in pleasure with true belief; however, they cannot seek the happiness without the knowledge because we are human who act, being, and know reality. Because pleasure just happen in a short time and cannot be always like happiness. For example, the man actor in the fiction film Matrix was find out what is the reality after a time living in matrix, a machine world. Furthermore, Professor Terry Walsh said, “We care about knowledge because we care our lives”[13] As human nature, we care about not only our lives but also lives of people who matter to us. How can we take of others and us without the knowledge? Can a mother take care her child’s health and education them by the truth belief only? Therefore, human need to have knowledge to live or to care as a human being by its value. Human nature is not only care the truth because its value in health and education but also care about the truth of other to love them.
In conclusion, there are some reason for knowledge is better than true belief that the desire to know, link between the world and ourselves, ultimate happiness, and care about our lives. Those reasons give us an invitation to enter the journey seeking for knowledge. It is a sentence in the New Testament that “the truth will make you free” (Jn 8, 32). What is the truth? Although Kant claim that God belong to the world of “things in itself”, I believe God is the center of all things. He is a center of circle as One, cover by a equilateral triangle with three vertices is Truth, Good, and Beauty. He is same level with all things, but the center of all things and everything in reference to Him. I can receive all value of knowledge from God.


[1] Professor Terry Walsh. SJ, PowerPoint: Contemporary Epistemology I, slide 16.
[2] Gibbs., PowerPoint: Epistemology V, slide 5.
[3] Gibbs., PowerPoint: Contemporary Epistemology I, slide 12.
[4] Plato, Meno, 97b.
[5] Ibid., 97e.
[7] Plato, Meno, 97d.
[8] Ibid., 97d.
[9] Professor Terry Walsh. SJ, PowerPoint: Epistemology II, slide 4.
[10] Ibid., slide 8 (Linda Zagzebski, On Epistemology (Wadsworth, 2009)
[11] Group 4, PowerPoint: Value of  knowledge, slide 4.
[12] Professor Terry Walsh. SJ, Op. cit., slide 10
[13] Ibid., slide 12

Thursday, September 7, 2017

Tu Sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giê-su Việt Nam Đam Mê một sự Điên Rồ?

From: http://cudogamxuong.blogspot.com/2016/08/tu-si-dong-thuong-kho-chua-gie-su-viet.html 

Tu Sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giê-su Việt Nam
Đam Mê một sự Điên Rồ?

Một buổi chiều nắng gắt năm 2007, sau thánh lễ ngày Chúa Nhật, tôi nghe một ông cha tây[1] giới thiệu ơn gọi về dòng của cha. Thực sự, tôi chẳng mấy quan tâm vì ươc mơ của tôi là trở thành một nhà nghiên cứu văn hóa, đi đây đi đó, khám phá các nền văn hóa trên thế giới. Thế nhưng tên dòng sao lạ quá: Dòng Pát-si-ô-nít và một điều khiến tôi muốn liên lạc với họ là vì dòng đang hiện diện ở Sài Gòn - nơi tôi ước mơ đặt chân tới cổng trường đại học.
Rồi ước mơ đó cũng thành hiện thực, tháng 7/ 2010 tôi rời quê nghèo vào Sài Gòn đi học. Ấy thế, không như tôi nghĩ, Sài Gòn đúng là chốn thiên đường, nhưng Sài Gòn cũng là một nơi thiếu vắng tình người, quá phức tạp, quá xô bồ, quá chộp giật. Trong thời gian đi học, vì sự tò mò, tôi đến tìm hiểu và sinh hoạt với anh em trong dòng Pát-si-ô-nít vào chủ nhật tuần thứ hai và tuần thứ tư.
Trong một căn nhà nhỏ gần nhà thờ Fa-ti-ma, có ba linh mục nước ngoài[2] sống và sinh hoạt với các anh em Việt Nam vô cùng giản dị và thân thiện. Thật sự, họ là những linh mục nước ngoài vô cùng đơn sơ và mộc mạc lần đầu tiên tôi thấy. Vì dòng mới qua Việt Nam[3] nên vốn tiếng Việt của các cha còn bập bẹ, do đó các ngài và sinh viên chủ yếu giao tiếp bằng tiếng Anh. Họ ăn cơm theo phong cách nước ngoài, thế nhưng bầu không khí luôn vui vẻ, tràn ngập tiếng cười và ấm cúng đậm chất Đông phương. Dù họ là những linh mục tới từ Ấn Độ, Úc và Ắc-hen-ti-na cùng sống và sinh hoạt với mười mấy anh em sinh viên Việt nam, nhưng nơi đó không còn khoảng cách về địa lí. Có một cái gì đó đã cột chung những con người đó lại với nhau, sống làm một và trở nên anh em của nhau và nơi đó không có sự phân biệt người da trắng hay da vàng. Họ xưng hô với nhau không phải cha con, nhưng anh em. Họ không quoanh tay hay cúi chào khi gặp nhau, nhưng là một cái bắt tay hay một cái ôm thật chặt và ấm áp đậm chất Tây phương. Tôi sẽ nhớ mãi khoảnh khắc lần đầu tiên trong đời, cha giáo người Ắc-hen-ti-na rửa chân cho tôi và sau đó đặt lên đôi bàn chân gầy, đen đủi của tôi một nụ hôn trong ngày lễ thứ Năm Tuần Thánh. Thoạt đầu, với tôi, dòng Pát-si-ô-nít thật ấn tượng và có một chút lạ lẫm với văn hóa Việt.
Khi bắt đầu sinh viên năm ba đại học, tôi xin cha phụ trách sinh viên vào nhà nội trú của dòng Pát-si-ô-nít để có một nơi yên tĩnh phục vụ cho việc học và trau dồi tiếng Anh, cũng đồng thời tìm hiểu ơn gọi của dòng. Có lẽ nhiều người sẽ thắc mắc, tại sao giờ là dòng Thương Khó Chúa Giê-su? Vâng, khi mới qua Việt Nam, dòng có tên tiếng Anh: The Congregation of the Passion of Jesus Christ, vì tên tiếng Anh vừa dài lại khó phát âm, nên khi giới thiệu ơn gọi rất ít người nhớ, vậy các cha lấy một cái tên cho dễ nhớ: Dòng Pát-si-ô-nít[4] (Passion). Cái tên này đã đồng hành trong những năm đầu, nhưng dường như nó chưa thật sự diễn tả hết ý nghĩa của tên dòng. Vì thế các cha đã thống nhất một cái tên gọi khác đậm chất Việt Nam và khi nhắc đến, ít hay nhiều, mọi người cũng cảm nghiệm được đời sống của một tu sĩ của dòng: Dòng Thương Khó Chúa Giê-su, xuất phát từ Passion và Tu sĩ dòng Thương Khó Chúa Giê-su là the Passionist.
Nhiều người khi nghe đến Dòng Thương Khó Chúa Giê-su, họ nghĩ ngay đến cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, hay dòng đau khổ. Ấy thế ai biết rằng ẩn dưới bề mặt chữ viết, tên gọi của dòng lại ẩn chứa không chỉ cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, nhưng còn là niềm đam mê, niềm khát khao tột cùng của Chúa Giê-su được yêu con người đến chết và những tu sĩ dòng Thương Khó muốn được dấn thân và đam mê như Chúa Giê-su đã đam mê.
Theo cách phiên âm Nôm - Việt của linh mục Stephano Huỳnh Trụ[5], “thương”(傷) không chỉ có nghĩa là đau đớn, đau khổ, mà nó còn có nghĩa yêu, mến, muốn luôn luôn gần gũi, sẵn sàng giúp đỡ hoặc hy sinh. “Khó” (苦) là vị đắng, cực nhọc, thử thách, là buồn sầu. Vậy chữ “thương khó” hàm chứa cả những đắng cay, đau khổ, thử thách và cả một tình yêu và sự hi sinh to lớn. Thế nhưng từ “thương khó” vẫn chưa thực sự diễn tả hết nội tại của từ “passio”. Trong tiếng Anh, “passion” không chỉ diễn tả niềm đam mê, tình cảm, sự nhiệt huyết, nhiệt tâm, dục vọng mà còn cả cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su. Trong từ điển Công Giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam[6], “passio” để chỉ cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su từ bữa Tiệc Ly cho tới cái chết của Ngài trên Thập Giá và mai táng trong mồ. Như vậy lớp nghĩa ẩn sâu dưới mặt chữ “Thương Khó Chúa Giê-su”, diễn tả tình yêu nhưng không của Chúa Giê-su bằng cái chết đau đớn, cô đơn trên Thập Giá. Ngài đã khao khát, đã đam mê để được yêu con người đến hi sinh cả mạng sống. Như vậy, những tu sĩ dòng Thương Khó Chúa Giê-su cũng được mời gọi bước trên con đường đó; dám hi sinh, dám chết đi những điều tầm thường để mặc lấy, để đam mê một con đường, một sứ mạng mà Chúa Giê-su đã mời gọi và đặt để nơi mỗi tu sĩ của dòng Thương Khó Chúa Giê-su. Như linh đạo của dòng mà cha Thánh Phao-lô, đấng sáng lập dòng luôn nhắc nhở anh em và trở thành căn tính của một tu sĩ dòng Thương Khó: “Xin cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su Ki-tô, luôn hiện diện một sách sống động trong trái tim, trong công việc và cuộc sống của mỗi anh em”[7].
Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su là một minh chứng cho chúng ta thấy rõ tình yêu nhưng không, niềm khao khát sâu thẳm, sự đam mê cháy bỏng của Ngài với con người. Cuộc đời của Ngài chỉ vỏn vẹn trong 33 năm. Sinh ra trong máng cỏ với mảnh vải nhỏ và chết treo xác trên Thập Giá cũng chỉ với một mảnh vải nhỏ che thân. Sao Ngài lại có một đam mê “điên rồ” vậy? Một đam mê đánh đổi bằng cả mạng sống? Vì Ngài khao khát, ước ao chúng ta được sống hạnh phúc và bình an. Ngài không muốn nhìn con cái của Ngài ngày đêm ngụp lặn, đau khổ trong tội lỗi, trong những thứ vật chất chóng qua. Chính vì thế, chỉ có cái chết, Ngài mới có thể đánh thức con cái của Ngài bừng tỉnh, mới có thể đem đến cho con người một cuộc sống mới.
Nhưng thật đáng mỉa mai, khi Thập giá của Đức Kitô lại trở nên một sự điên rồ khó hiểu nhất trong các sự điên rồ với nhiều người như Thánh Phao lô từng nói: “...chúng tôi rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ”[8]. Vậy một tu sĩ dòng Thương Khó phải chăng đang đam mê một điều điên rồ? Một sự quái gỡ mà hầu hết mọi người trên thế giới đang quay lưng? Thưa, đúng. Cha Thánh Phao-lô Thánh Giá, đấng sáng lập dòng Thương Khó, khi chiếm ngắm cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, ngài đã thốt lên: “Sự Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô là bằng chứng lớn nhất và rõ ràng nhất cho tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và là phương dược chữa trị mọi đau khổ trong thời đại của chúng ta”[9]. Chúng tôi, nhưng tu sĩ dòng Thương Khó muốn được điên rồ trong đam mê đó. Ai bảo chúng tôi là những tu sĩ quái gỡ, điên khùng cũng được, vì chúng tôi chấp được trở thành những môn đề điên rồ của Chúa Giê-su. Với nhiều người rao giảng về Thập giá là sự điên rồ, nhưng với chúng tôi Thánh Giá là dấu chỉ tình yêu tuyệt vời nhất, một sự kết nối sâu sắc giữa con người với Thiên Chúa và là cảm hứng ngọt ngào để chúng tôi cản đảm sống và đam mê như Chúa Giê-su đã làm. Chính niềm đam mê cái chêt của Đức Ki-tô trên cây Thập Giá, mỗi tu sĩ dòng Thương Khó dám “đam mê”, dám đặt đời mình vào bàn tay quan phòng của Ngài.
Hơn thế nữa, với lời khấn thứ tư của một tu sĩ dòng Thương Khó rằng: luôn khắc ghi Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Giêsu, vậy tu sĩ Dòng Thương Khó luôn ước ao làm sao cho Cuộc Thương Khó ấy thấm đậm trong tâm trí và linh hồn mình. Thế nhưng, để nó trở nên chính đặc tính hay máu thịt của chính mình, mỗi người tu sĩ dòng Thương Khó luôn biết chiêm ngắm thật kỹ, thật sâu sắc để tìm ra ý nghĩa tuyệt vời mà chính Cuộc Thương Khó mang lại, để rồi tìm thấy hình ảnh người nghèo, hình ảnh những người đang đau khổ ngang qua hình ảnh thương đau của Chúa Giê-su trên Thập Giá.
Như vậy, hơn mười một năm hiện diện trên đất Việt, tu sĩ dòng Thương Khó đã, đang và tiếp tục đam mê sự điên rồ đó như thế nào? Thưa, chúng tôi thể hiện niềm đam mê đó qua việc trau dồi bốn chiều kích: Tri thức, Tâm linh, Cộng đoàn và Mục vụ. Chúng tôi không thể đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội nếu không có kiến thức; chúng tôi không thể sống và hoạt động hữu hiệu nếu thiếu một đời sống tâm linh cột chặt và bén rễ sâu vào Đức Ki-tô; chúng tôi không thể trở thành những tu sĩ nhạy bén, thấm đẫm tình người nếu thiếu cộng đoàn - gia đình thứ hai của mỗi tu sĩ Thương Khó; cuối cùng đời sống tu sĩ của chúng tôi sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có mục vụ, không có đam mê để được đến với những người đang sống trong đau khổ.
Thực vậy, chúng tôi không chỉ có đam mê đến điên rồ bởi cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, nhưng còn đam mê mục vụ, đam mê đến với người nghèo, được làm bạn và sống với họ như những người thân của họ. Sau những ngày tháng miệt mài trên ghế học viện, hai tháng hè vâng lời bề trên, các anh em lên đường mang theo hành trang không chỉ kiến thức, lòng nhiệt tình, tình yêu muốn được phục vụ, chia sẻ mà còn cả con tim đầy đam mê của một tu sĩ dòng Thương Khó Chúa Giê-su tới các mái ấm, tới cùng cao, vùng dân tộc, vùng sâu vùng xa để phục vụ, để sưởi ấm, để thắp lên hi vọng trong những cõi lòng đang thiếu vắng tình thương, hay cùng đi làm rẫy với anh chị em dân tộc và cùng sống với họ như những người anh chị em thật sự. Nhưng cũng phải kể đến, có những trải nghiệm chẳng phải dễ dàng đón nhận và biến nó thành đam mê của mình. Mái ấm Phan Sinh (Đồng Nai), nơi mục vụ để lại bao thổn thức cho anh em. Nhưng đứa bé khuyết tật bị bỏ rơi, thiếu vằng tình thương của cha mẹ, người thân, khiến chúng lãnh cảm, sợ ai đó chạm vào chúng, nên khi được anh em chăm sóc, có em gào thét, có em cắn, khặc nhổ, có em phun cơm vào mặt anh em. Những cụ già neo đơn, sống phần đời còn lại trong cô đơn, luôn trở nên khó tính, hay chửi mắng khi họ không hài lòng. Hay những cô cậu thanh niên bị tổn thương cả thể xác lẫn tinh thần bởi những vụ lạm dụng tình dục, những bạo hành gia đình, khiến các em không thể kiểm soát được hành vi, nên nhiều lần các em dội cả bô phân lên đầu anh em. Hỏi anh em có buồn, có mệt không? Có chứ, vì anh em cũng là những con người yếu đuối, nhưng anh em vẫn phục vụ, chăm sóc họ bằng tất cả tình yêu và sự hi sinh,vì yêu và phục vụ những người đang đau khổ là niềm đam mê của các anh.
Riêng tôi, sao tôi có thể quên được trải nghiệm lần đầu tiên mục vụ ở Kon Tum. Ta cứ nghe trên sách báo hay truyền thông, nhà nước quan tâm chăm sóc anh chị em dân tộc hay lắm, ai ngờ “quan tâm” bằng cách phá rừng, cướp đất, bòn vét, xem họ như công cụ để bóc lột. Tôi đã “tận hưởng” gần hai tháng hè vô cùng ý nghĩa. Tôi giúp các em dân tộc học bài, sống với anh chị em dân tộc, cùng ăn lá mì với cơm trắng kèm với muối, cùng ngủ nhà sàn, cùng đi bộ lên rẫy, cùng tắm, đánh răng, súc miệng bằng nước khe và sống như một thành viên của làng. Hai tháng trôi qua, tôi gầy đi nhiều, nhưng tôi đã có một trải nghiệm tuyệt vời bên những người mà tôi gọi là người nghèo của Chúa, và là anh chị em của tôi.
Đam mê không dừng lại ở đó, mà chúng tôi còn “đam mê” ngay chính những đau khổ trong cuộc đời mình. Tôi tin chắc rằng sự mời gọi của Chúa Giê-su với mỗi tu sĩ Dòng Thương Khó Việt Nam cũng đặc biệt như tên gọi của dòng. Làm sao có một sự thấu hiểu, một kinh nghiệm đau khổ sâu xa nếu như ta chưa bao giờ trải qua đau khổ? Mỗi tu sĩ dòng Thương Khó đều mang trong mình một sự thương khó, một cây Thánh Giá mà Chúa gởi. Cha Thành, một trong hai linh mục Việt Nam đầu tiên của dòng vừa trở về Việt Nam sau hai tuần bên Úc lãnh nhận chức linh mục, hay tin mẹ mất. Đau đớn nào hơn khi ngày hạnh phúc của con, cũng là ngày chịu tang mẹ. Thầy sáu Tuệ, những ngày đang sống trong tình Chúa ở nhà tập tại Úc, nhận được tin ba mất. Gạt nước mắt, tiễn ba, thầy mạnh mẽ tiếp tục sứ mạng của mình nơi đất khách. Thầy sáu Tuấn, gần ngày con lãnh chức phó tế, mẹ nhập viện mổ tim. Thầy gác công việc học tập, cộng đoàn để bên cạnh, chăm sóc mẹ. Hay những em sinh viên khác, lớn lên đã mang bao viết sẹo hằn sâu trong tim từ gia đình, từ sự nghèo đói, từ những tổn thương tinh thần không thể nào xóa bỏ một sớm một chiều. Chính những đau khổ mà mỗi tu sĩ dòng Thương Khó tự trải nghiệm bằng đời mình là những kinh nghiệm, chất xúc tác tuyệt vời cho sứ mạng phục vụ người nghèo. Hơn thế nữa, mỗi tu sĩ cũng dám “đam mê” những đau khổ trong đời mình. Xem nó là một phần không thể thiếu trong đời sống ơn gọi để ý thức về con người yếu đuối, bất toàn ngay chính bản thân mình, để biết khiêm nhường hơn, để biết trưởng thành, biết đồng cảm và lắng nghe bao tiếng ai oán ngoài xã hội.
Hơn thế nữa, không chỉ những tu sĩ dòng Thương Khó Chúa Giê-su mới có những đam mê và làm chứng cho sự điên rồ về Đức Giê-su Ki-tô như vậy, vì ngay trên đất nước Việt và toàn thế giới vẫn còn rất nhiều tu sĩ, linh mục và nhiều Ki-tô hữu khác, đang ngày ngày làm chứng về sự điên rồ đó. Họ sẵn sàng mang danh là một người điên của Chúa, đam mê một sự điên rồ và chết cho một điều quái gỡ. Họ chấp chấp lội ngược dòng, bỏ qua với những thành kiến của xã hội để rao giảng cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, dám phục vụ hết mình vì người nghèo, vì những người đang đau khổ, để tình người được lan rộng và tình yêu của Chúa Giê-su được thẫm đẫm, chan hòa trên mọi người. Họ cũng chỉ muốn sởi ấm những cỏi lòng đang cô đơn lạnh giá, những tâm hồn thiếu vắng tình thương. Vậy những đam mê đó là điên rồ ư khi nó mang những giá trị vô cùng nhân văn?
Ta cứ nghĩ rằng xã hội ngày càng phát triển, văn minh, hiện đại, con người sẽ bớt đi nghèo đói, hay sẽ có nhiều thú tiêu khiển giúp con người bớt đau khổ. Thế nhưng ai biết rằng ngày càng có nhiều người đau khổ hơn và nổi khổ càng đa dạng hơn. Họ không chỉ đau khổ và nghèo đói về vật chất, cơm áo gạo tiền, đang chết “khát” tình người, sự yêu thương, quan tâm, chia sẻ, nhưng còn đau khổ, đói khát về đời sống tâm linh khi chủ nghĩa vô thần, đang đào luyện họ chối bỏ hay nói cách khác là bài trừ tôn giáo để chạy theo lối sống thực dụng - cái chỉ cho họ những thỏa mãn vật chất, tầm thường. Nhưng sao thể trách họ , vì họ cũng chỉ là nạn nhân của một chế độ, một nhà nước, một nền giáo dục cứ ngày ngày nhồi nhét và đạo tào ra những con người chỉ biết đề cao sự hưởng thụ vật chất, biến con người ngày càng ích kỉ hơn và tình người được định lượng bằng quyền lực và tiền bạc. Con người chỉ biết kiếm tiền và tận hưởng những gì họ cho là thõa mãn nhu cầu vật chất của họ trên cõi đời tạm bợ này.
Thực vậy chúng tôi, tu sĩ dòng Thương Khó Chúa Giê-su đã được mời gọi để sống và cột chặt đời mình với Chúa Giê-su Ki-tô, để xin sự Thương Khó của Chúa Giê-su Ki-tô luôn ngự trị trong sâu thẳm của mỗi anh em. Để ngang qua cái chết của Ngài, các anh em cảm nhận sâu xa nổi lòng của người nghèo, của anh chị em đang đau khổ bên ngoài xã hội, từ đó có những hành động cụ thể để cùng chia sẻ, đồng cảm và lắng nghe tiếng lòng thổn thức của họ. Đồng thời những đau khổ trong chính cuộc đời của mỗi anh em là những kinh nghiệm để lớn lên, trưởng thành hơn và đồng cảm và thấu hiểu sâu sắc hơn với những đau khổ của người nghèo. Như vậy, tu sĩ dòng Thương Khó đã “điên rồ” trong những đam mê như vậy đó. Thế nhưng Đức Giêsu không chỉ mời gọi những người Tu sĩ Dòng Thương Khó mà Ngài cũng mời gọi tất cả mọi người Kitô hữu hãy biết sống gắn bó với mầu nhiệm Thương Khó để cảm nghiệm hương vị ngọt ngào của Tình Yêu, của một niềm đam mê cháy bỏng nơi Đức Ki-tô. Từ đó, chúng ta không chỉ sống, mà sống với một đam mê, một khao khát muốn được sẻ chia Tình Yêu ấy cho người khác, những người đang kém may mắn trong cuộc sống ở xung quanh chúng ta, như khao khát của Ngài: “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em”.[10]
Tài liệu tham khảo
1. ARISTIN, C.P, JPIC Passionist, Rome, 2009.
2. GIORGINI, Fabiano, C.P, History of the Passionist, General Curia , Rome, 2004.
3. Giuse THỤY, Đỗ Văn, Tân Phúc Âm Hóa Đam Mê Lạc Thú, NXB Tôn Giáo, 2016.
4. Học Viện Đa Minh, Thuật Ngữ Thần Học (Anh - Việt), NXB Tôn Giáo, 2014.
5. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Tôn Giáo Đức Tin, Từ Điển Công Giáo 500 mục từ, NXB Tôn Giáo, 2011.
6. http://www.vietcatholic.net




[1] Cha Franxicô, một trong ba vị linh mục ngoại quốc dòng Thương Khó Chúa Giê-su đầu tiên qua Việt nam truyền giáo.
[2] Cha Jeff (Úc), cha Thomas (Ấn Độ) và cha Franxico (Ắc-hen-ti-na).
[3] Dòng Pát-si-ô-nít hiện diện ở Việt Nam vào ngày 12 tháng 10 năm 2005.
[4] Pát-si-ô-nít là phiên âm tiếng Việt của từ Passion.
[5] http://www.vietcatholic.net/News/Html/134426.htm
[6] Từ điển Công Giáo, 500 mục từ. Trang 77
[7] JPIC Passionist. Trang 18.
[8] 1Cor 1, 23
[9] JPIC Passionist. Trang 21.
[10] Ga 15, 12

Tuesday, September 5, 2017

Dòng Thương Khó Chúa Giêsu – Passionist - Giới thiệu không chính thức từ Facebook

Liên kết gốc (màu đỏ trong bài là góp ý chỉnh sửa từ cá nhân nguời sưu tập) 
: https://www.facebook.com/1079985478759040/photos/a.1079987918758796.1073741827.1079985478759040/1465635556860695/?type=3&theater

Dòng Thương Khó Chúa Giêsu – Passionist (The Congregation of the Passion of Jesus Christ  or the Passionists)

Dòng Thương Khó Chúa Giêsu (Dòng Passionist) được thành lập bởi Thánh Phaolô Thánh Giá (1694 – 1775) vào năm 1720 tại Rôma, thuộc quyền Giáo Hoàng với hơn 2.083 thành viên hiện đang hoạt động tại 59 quốc gia tại 5 châu lục. Họ được điều hành bởi một Bề Trên Tổng Quyền tại Rôma, người được bầu chọn 6 năm một lần.

Vị sáng lập – Thánh Phaolô Thánh Giá – nhìn thấy rằng cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu là một công trình vĩ đại của Tình Yêu nhiệm mầu và là một mặc khải sức mạnh Phục Sinh vượt qua mọi thế lực của ma quỷ. Thánh nhân đã truyền lại cho những người theo ngài nhiệm vụ phải loan báo cho những người đương thời về “Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi người và mọi người được nhìn thấy qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, người đã trỗi dậy vinh quang trong ngày Phục Sinh”

Các Tu sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giêsu phải thực hiện một lời hứa đặc biệt đó là phải quãng bá việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô bằng lời nói và hành động. Họ làm những điều này thông qua việc giảng thuyết và các hoạt động mục vụ khác nhau giữa những người nghèo, những người tị nạn, những người bị gạt ra ngoài lề xã hội, những người mà họ nhìn thấy đang chịu đóng đinh trong thời đại ngày nay. (Đọc lời khấn để hiểu thêm một phần linh đạo: 
 “Con là …. Con xin quyết tâm thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa và theo sát Đức Kitô chịu đống đinh hơn. Vì thế, trước sự hiện diện và trong tay cha …, con xin tuyên khấn (trong ba năm/ trọn đời) khắc sâu trong lòng với tình mến sự Thương Khó của Chúa và dùng lời nói và việc làm quảng bá sự Thương Khó ấy, con xin tuyên khấn khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục theo Hiến Pháp và Luật của Hội dòng Thương Khó Chúa Giêsu Kitô. Con xin cam kết thuộc trọn về gia đình dòng này, để nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ sự trợ giúp của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Sầu Bi, và nhờ lời cầu nguyện của cha thánh Phao lô Thánh Giá, con có được sự sống dồi dào mà phục vụ Thiên Chúa và Hội Thánh Người.”)

Một đặc trưng khác của các Tu sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giêsu đó là đời sống cộng đoàn. Tình huynh đệ của các anh em thể hiện qua việc đặt mọi sự làm của chung. Thời gian được dành cho việc cầu nguyện và cho một đời sống chiêm niệm sâu sắc. Họ là những người chiêm niệm – hành động theo một cách thức sáng tạo, đoàn kết nội tâm và một cuộc sống mục vụ năng động.

Là thành viên trong một Hội Dòng năng động, mỗi Tu sĩ đều được khuyến khích và hổ trợ để thi hành sứ vụ mà họ quan tâm và được trang bị. Cầu nguyện là một phần quan trọng nó không chỉ đối với việc thực tập tập mục vụ mà nó còn là một phần trong cách sống của họ.

Sứ vụ của các Tu sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giêsu

Sứ vụ chính của các Tu Sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giêsu đó là “Rao Giảng về Cuộc Khổ Nạn Chúa Kitô”. Tuy nhiên, nó được thể hiện qua nhiều cách khác nhau thông qua các hoạt động của họ.

Các hoạt động của Dòng Thương Khó Chúa Giêsu bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau từ việc tổ chức, hướng dẫn các buổi linh thao, giảng dạy, linh hướng, viết lách, tuyên úy trong các trường học và bệnh viện, trở thành những nhà quản lý, làm việc cho Liên Hiệp Quốc,… danh sách sẽ còn được viết tiếp. Nhưng tóm gọn, họ tin rằng mỗi sứ vụ riêng biệt mà mỗi anh em trong số họ được mời gọi đều nên được hỗ trợ và thực thi.

Mỗi tu sĩ Dòng Thương Khó Chúa Giêsu đều đón nhận cảm hứng từ đấng sáng lập Hội Dòng, Thánh Phaolô Thánh Giá, người đã đặt ra tầm nhìn cho những gì mà họ cần làm. Tầm nhìn này, mặc dù phần lớn các sứ vụ của họ đã thay đổi qua các thế kỷ nhưng vẫn đúng như những gì mà Thánh Phaolô Thánh Giá đã tiên liệu. Đó chính là việc họ phải trở thành nơi để những kẻ yếu đuối, những người nghèo đói, đau khổ tìm kiếm được tình yêu thương vô bờ bến của Chúa Giêsu Kitô.

Dòng Thương Khó Chúa Giêsu (Passionist) tại Việt Nam

Cộng Đoàn Dòng Thương Khó Chúa Giêsu tại Việt Nam được Cha Giám Tỉnh Tỉnh Dòng Úc Châu và Cha Jeff Foal – một ân nhân của những người tị nạn Việt Nam, Campuchia – ấp ủ từ lâu. Do đó, các Ngài đã sang Việt Nam để tuyển sinh ơn gọi và đào tạo nhằm chuẩn bị cho các sứ vụ tại Việt Nam.

Hiện nay nhân sự tại Việt Nam của Dòng hiện có khoảng 40 người bao gồm các ứng sinh, tập sinh. Cơ sở Dòng tại Tổng Giáo Phận Sài Gòn tọa lạc tại địa chỉ: 49A bis đường 36, KP.8, P.Linh Đông, Thủ Đức.

Các bạn trẻ có ao ước muốn tìm hiểu ơn gọi tại Dòng Thương Khó Chúa Giêsu tại Việt Nam sẽ phải học Tiếng Anh ở Việt Nam, sau đó sẽ được gởi sang Úc để khởi đầu năm tập viện tại đó. Sau khi tiên khấn, sẽ được gởi về lại Việt Nam để theo học chương trình tại các học viện đào tạo tu sĩ ở Việt Nam. (Đào tạo tu sĩ qua các giai đoạn: Ứng Sinh, Tiền Tập Sinh, Tập Sinh, Tiên Khấn, Vĩnh Khấn. Đào tạo cơ bản: Triết Học - Thần Học dành cho ứng viên Tu sĩ trọn đời lẫn Tu sĩ Giáo sĩ)

SUMMARIES of the Philippians

Paul have a deep friendship with Philippians so the letter is known as the letter of friendship. Paul seems to be a good teamwork man when he always have companions or co-workers.  He rejoices even in prison because he have happy memory with the Philippian and they are always in his heart and his prayers.  He does not care about envy and rivalry preacher but the Gospel be proclaimed. Paul shown that he are free and love to face with the death because he experienced the love and grace of God. One of special in the letter is Christ Hymn. This is the common faith of the community which contain Christ’s humility and obedience.  It makes the appeal to the Corinthians. Paul mentioned Timothy and Epaphroditus as they exemplify friendship in their deeds.
 One again, Paul mentioned the law and deal with circumcision in his letter. He said that righteousness is not from law but come from Christ’s faithfulness. Paul’s aim is to know Christ more clearly via Paschal Mystery. He encourage the Philippians to keep going forward and keep unity in God, especially Euodia and Syntyche. Paul mentioned “the Lord is near” as common believe that God come soon in their life time. Paul highlighted that only Philippians support him in his finance. He want to remind them about their generosity as great virtue because he did ask but they were free to offer as sacrifice to please God. They also exemplify friendship in Christ. Caesar is an image of empire and it can be a sign of secular world in divine world.