Tài liệu: Giuse Đỗ Xuân Vinh. Thần học Tín lý: Bí Tích Tổng Quát. ĐCV Giuse Sài Gòn. 2017. Tr. 100-104
1. Vài nét lịch sử tính của cấu trúc bí tích
2. Giáo huấn của Hội Thánh cùng đôi nét cố gắng diễn tả
J-P.
Revel đã nêu lên khó khăn về mô hình Chất – Mô qua ba vấn đề: logic hóa (giảm mầu
nhiệm), vật chất hóa (duy chất thể - duy mô thể: mất ý nghĩa phụng vụ), gượng
ép (vấn đề trong bí tích Hôn Phối và Thống Hối).
Trong Verbum
Domini
(53)[3],
Benedictus XVI cho thấy mối
tương quan gắn kết chặt chẽ (unity):
giữa Lời và Bí Tích, Lời và cử chỉ bí tích.
Bởi vì hai yếu cùng diễn tả một thực tại đó là hoạt động cứu độ của Thiên Chúa
trong lịch sử nhân loại. Thực vậy, Thiên Chúa không chỉ nói mà còn hành động. Nói
cách khác ‘Lời đang thực hiện điều Lời
nói.’ Đây là hai yếu tố làm nên đặc tính performatif – performative (đặc tính trình diễn: trình bày và thực hiện)
của Lời.
Theo
Ủy Ban Thánh Kinh Giáo Hoàng,[4] trong việc cử hành các bí tích của Giáo
hội thì phần phụng vụ Lời Chúa luôn có yếu tố quyết định (decisive element). Điều này đã được L-M.
Chauvet giải thích qua việc trình bày vai trò cốt lõi của Lời khi diễn tả cấu
trúc bí tích. Theo đó, ông cho rằng Lời có ba cấp độ ý nghĩa: (i) Lời là chính Đức Giêsu Kitô – Ngôi Lời
Nhập Thể, và là chủ thể chính trong việc cử hành các bí tích; (ii) Lời là Lời Chúa được viết ra trong
Kinh Thánh và được đọc khi cử hành bí tích; (iii)
Lời là Lời Bí Tích được thừa tác viên của Hội Thánh công bố nhân danh Đức
Giêsu Kitô. Áp dụng điều này, ông cho rằng cấu trúc của bí tích dựa trên Lời:
(i) nội dung được nói ra (Lời Chúa); (ii) hành vi nói qua trung gian thừa tác viên (Chúa Kitô); (iii) hiệu quả bí tích (ân sủng cứu độ).
Nhận định và Kết luận:
+
Thomas Aquinas (chất – mô) đã linh
hoạt và hợp thời, liệu có phải đã lỗi thời?!
+
Giáo hội:
ü Chỉ
một lần dùng chất – mô để định tín (Armenie), ngoài ra dùng lời và sự vật.
ü Chưa
bao giờ định tín Đức Tin Kitô giáo xây dựng trên triết học Aristotle (nó chỉ là
phương tiện)
ü Đức
tin đặt trên nền tảng mặc khải
+
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1115:
ü Các
mầu nhiệm cuộc đời Đức Giêsu được chuyển vào trong các bí tích,
ü Các
bí tích được cử hành và làm phát sinh hiệu quả bí tích qua trung gian các thừa
tác viên của Hội Thánh.
[1]
SC (PV) 59. “Các bí tích có mục đích
thánh hoá con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô, và sau cùng, thờ phượng Thiên
Chúa; vì là những dấu chỉ, các bí tích cũng có tác dụng huấn giáo. Các bí tích không những giả thiết phải có đức tin,
nhưng còn dùng lời nói và các vật thể
hữu hình để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin, vì thế được gọi là các bí
tích của đức tin. Thật vậy, các bí tích ban ân sủng, nhưng nghi thức cử hành sẽ
giúp các tín hữu sẵn sàng đón nhận ân sủng đó cách hữu hiệu, thờ phượng Thiên
Chúa cách thích đáng và thực thi đức ái. Do đó, điều rất quan trọng là làm sao
cho các tín hữu dễ dàng hiểu được những dấu chỉ của các bí tích, và siêng năng
lãnh nhận các bí tích đã được lập ra để nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu.”
[2] “tất
cả các Bí tích được làm nên bởi ba yếu tố: chất thể, lời nói làm mô thể và thừa
tác viên với ý hướng làm điều làm điều Hội Thánh Làm” (DS 1312)
[3] Thật vậy, trong tương quan giữa Lời và cử chỉ bí tích, chính hành động
của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện dưới hình thức phụng vụ qua đặc tính
trình diễn (performatif, trình-bày-và-thực-hiện) của Lời. Trong lịch sử cứu độ,
không có tách biệt giữa điều Thiên Chúa nói và làm; chính Lời của Ngài luôn sống
động và hữu hiệu (x. Dt 4,12), như từ ‘dabar’ trong tiếng Híp-ri diễn tả rõ
ràng. Cũng thế, trong hành động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời của Ngài, Lời
đang thực hiện điều Lời nói. (VD 53)
[4] Pontifical Biblical
Commission, The Interpretation of the Bible in the Church (15
April 1993) IV, C, 1: Enchiridion Vaticanum 13, No. 3123


No comments:
Post a Comment