Dĩ vãng có thể được gợi lại nhờ ký ức. Nhưng tại sao
dĩ vãng là cái đã qua lại có thể tái hiện ở hiện tại? Đành rằng nhờ hoài niệm,
nhưng hoài niệm là gì? Bản tính của nó là vật chất hay tinh thần? Những học
thuyết sau đây trả lời một cách khác nhau:
A. Thuyết
sinh lý của Ribot
Ribot bảo ký ức cốt yếu là một hiện
tượng sinh lý, tùy tòng là một hiện tượng tâm lý. Cái mà ta gọi là hoài niệm chỉ
là những dấu vết vật chất in vào óc não và có thể gợi lại. Việc khêu gợi lại bản
nhạc đã ghi trong những đường rãnh.
Riot đã nêu ra những lý lẽ sau đây
để biện minh cho lập luận của ông.
1. Ký
ức tùu thuộc sự dinh dưỡng, tuần hoàn, hô hấp. Trẻ con nhờ có sự dinh dưỡng mạnh
và nhanh chóng nên việc ghi nhớ và khêu gợi hoài niệm dễ dàng hơn người lớn tuổi.
Một hoài niệm khi cảm xúc dễ ghi nhớ và khêu gợi vì lúc xúc cảm máu chạy nhanh.
Càng dễ nhớ một hoài niệm khi cơ thể ta tiêu thụ dưỡng khí càng nhiều.
2. Cảm
giác và hoài niệm cũng ở 1 chổ trong óc não và như vậy cùng một bản tính là
sinh lý. Sự nhớ lại 1 hoài niệm cũng phát sinh những hiệu quả sinh lý như khi
có cảm giác. Nhớ lại 1 quả chua đã ăn cũng làm chảy nước miếng như khi đang ăn
quả chua ấy.
3. Những
thương tích ở óc não làm biến mất hoài niệm tương ứng. Broca cho biết sự xuất
huyết ở khúc cuộn trán thứ 3 bên trái khiến người bệnh mắc bệnh mắc chứng thất
ngữ vận động, nghĩa là không nói được mặc dù dây âm thanh vẫn nguyên vẹn. Quan
niệm sinh lý bảo rằng chính vì các hoài niệm của ngôn ngữ được lưu trữ ở khúc
cuộn trán thứ 3 bên trái đã bị hủy diệt.
Bình
luận:
1. Không
có một bằng chứng chắc chắn nào để quả quyết rằng trẻ con dễ nhớ vì có sự dinh
dưỡng mạnh. Nếu trẻ dễ nhớ hơn người lớn, có thể là vì trẻ em chưa tiếp xúc với
nhiều vẫn đề, ý thức của nó chưa bị nhiều tâm trạng che đậy chống chất. Sau nữa
ký ức tùy thuộc sự tuần hoàn, hô hấp là điều dĩ nhiên vì ta biết rằng giữa tâm
lý và sinh lý có 1 tương quan mật thiết nhưng điều ấy không đủ để bảo rằng các
hoài niệm được lưu trữ ở óc não.
2. Trong
quyển “vật chất và ký úc” Bergson cho ta thấy rằng việc hư hỏng 1 miền óc não
không hủy diệt các hoài niệm ấy trong trường hợp cố ý. Một đôi khi hoài niệm đã
quên có thể tái hiện nhất là khi có 1 cảm xúc. Người ta kẻ lại trường hợp 1 người
mắc bệnh thất ngữ vẫn thực hiện cử chỉ này 1 cách tự phát lúc bước chân vào nhà
thờ. Ở đây sự khêu gợi cố ý đã thất bại, nhưng sự khêu gợi tự phát lại thành
công. Nếu các hoài niệm được lưu trữ ở óc não, tại sao khi óc não hư hỏng lại
có thể có sự tái hiện các hoài niệm ấy.
3. Nếu
các hoài niệm là dấu vết vật chất in vào óc não thì chúng đồng hóa với óc não,
với vật chất và do đó không mang thời gian tính nữa. Kết quả là không có hoài
niệm vì bản chất của hoài niệm là thuộc quá khứ mang thời gian tính.
B. Thuyết
tâm lý của Bergson
Tác giả “Vật chất và ký ức” nói rằng Ribot tưởng đã
nói về ký ức trong khi chỉ nói về tập quán. Do đó, Bergson phân biệt hai loại
ký ức: ký ức tập quán và ký ức hoài niệm.
Ký ức tập quán chỉ là 1 chuỗi vận động do sự lập đi
lập lại. Đọc thuộc lòng 1 bài thơ là 1 ký ức tập quán. Cũng như đi xe đạp, bơi
lội, trượt tuyết. Đặc điểm của ký ức tập quán là quá khứ được gợi lại, được sử
dụng để thích nghi với hiện tại nhưng không hề được nhận biết thuộc quá khứ.
Quá khứ được gợi lại 1 cách máy móc tự động.
Ký ức hoài niệm khác hẳn. Với khả năng này quá khứ
được đưa vào ý thức lập tức, ngay lần đầu mà không cần lập đi lập lại. Đó là 1
hoài niệm thực sự và hoài niệm là 1 hình ảnh tinh thần chứ không phải là những
vận động như ký ức tập quán. Nếu hoài niệm là hình ảnh tinh thần, thì nó không
thể được ghi giữ ở óc não. Tuy nhiên quá khứ vẫn luôn luôn tồn tại trong ta,
không phải trong óc não nhưng ở trong vô thức. Chỉ 1 phần nhỏ quá khứ xuất hiện
ở ý thức hiện tại của ta mà thôi. Bergson giải thích sự kiện đó như sau:
Ý thức của ta biến chuyển giữa hai bình diện: hành động
và mơ mộng. Càng gần bình diện hành động, ý thức càng sống với hiện tại nên quá
khứ gần như bị lãng quên. Chỉ có rất ít hoài niệm được gợi lại nếu chúng giúp
ích cho ý thức đối phó với hiện tại. Công việc gợi lại những hoài niệm hữu ích ấy
là công việc của óc não. Óc não không giữ việc ghi giữ hoài niệm mà chỉ đóng
vai trò dụng cụ giúp ta khêu gợi hoài niệm.
Một khi đi xa bình diện hành động hiện tại, ý thức
có thể thấy lại dĩ vãng của nó. Trong khi mơ mộng, trong khi ngủ những hoài niệm
tái hiện dồn dập vì không còn có sự lựa chọn như lúc thức tỉnh. Những chứng bệnh
ký ức càng biện minh cho quan niệm Bergson: khi óc não hư hỏng, việc khêu gợi cố
ý các hoài niệm không thể thực hiện được vì dụng cụ giúp ta khêu gợi các hoài
niệm tức óc não không thể hoạt động nữa. Tuy nhiên, các hoài niệm vẫn tiếp tục
tồn tại trong vô thức.
C. Tâm
lý học hiện đại bình luận quan điểm Bergson
Bergson đã đánh đổ được quan điểm duy vật của Riot,
đồng thời đem lại nhiều ý kiến mới lạ cho tâm lý học. Tuy nhiên Bergson vẫn
không tránh được 1 số khuyết điểm sau đây:
1. Bergson
đã đồng hóa hoài niệm với ảnh tượng vì ông cho rằng những hình ảnh trong chiêm
bao chỉ là những biến cố quá khứ tái hiện. Thực ra những hình ảnh đó không phải
là hoài niệm thực sự vì người chiêm bao không nhận biết chúng thuộc quá khứ. Một
trong những động tác của ký ức là nhận biết hoài niệm không có trong chiêm bao.
Janet viết: “Chiêm bao là một hành vi sơ đẳng và thuộc về 1 trình độ tâm linh ở
đó người ta không thể tìm thấy ý thức”
2. Cũng
như Riot, Bergson coi hoài niệm là những sự vật được lưu trữ. Riot coi hoài niệm
là sự vật tinh thần (choses mentales) được lưu trữ trong vô thức. Cả trong 2
trường hợp hoài niệm đều được xem là bản sao của những tri giác có trước. Sự kiện
đó làm ta không thể hiểu được điều này: khi hoài niệm tức là khi các dấu vết ở
óc não hay các hình ảnh tinh thần trong vô thức được gợi lại, làm sao ta có thể
nhận biết chúng là những hoài niệm, tức là đã thuộc quá khứ? Nếu hoài niệm là
những sự vật, chúng không bao hàm yếu tố thời gian Merleau – Ponty đã bình luận
quan điểm của Bergson như sau: “Nếu ta thay thế dấu vết sinh lý bằng dấu vết
tâm lý, nếu tri giác của ta được lưu trữ trong vô thức, vấn nạn cũng chỉ là một.
Một tri giác được lưu trữ vẫn là một tri thức, nó vẫn tồn tại, nó vẫn luôn luôn
là hiện tại, nó không mở ra một chân trời đã chạy trốn và vắng mặt là quá khứ”
3. Vạy
hoài niệm không phải là sự vật vật chất hay tinh thần. Nó là 1 tác động của ý
thức, một phán đoán của tinh thần nhận biết những hình ảnh do mình tạo ra thuộc
quá khứ. Vậy nói răng ghi giữ hoài niệm thì không đúng vì người ta chỉ ghi giữ
một sự vật chứu không ghi giữ một hành động.
Nhưng dựa vào gì ý thức có thể tạo lại quá khứ? Có
thể nói nhờ liên tưởng mà sự kiện tiên khởi thường là một sự kiện có trong hiện
tại. Halbwachs nói rằng ta dựa vào những “khuôn khổ xã hội” tức là những tiêu
điểm do đời sống xã hội đặt ra để tạo lại quá khứ. Tiêu điểm ấy có thể là ngày,
tháng ghi trên lịch hay những biến cố có tính cách đại đồng. Chẳng hạn khi tôi
nói: “Chúa nhật vừa qua”, “khi tôi theo học lớp đồng ấu”, “dưới thời ông Ngô
Đình Diệm” … là có thể tạo lại quá khứ liên quan đến những “tiêu điểm” ấy.
No comments:
Post a Comment