Saturday, July 1, 2017

Anh mù bẩm sinh (Ga 19, 1-41) – Tôi đã mù nay tôi thấy được (Noted)


Anh mù bẩm sinh được biết đến rõ ràng trong Tin Mừng Gioan chương 9. Sau đây là một vài chi tiết về nhân vật: vô danh, mù bẩm sinh, người ăn xin gần đền thờ Giê-ru-sa-lem (8,59 – 9,1; 9:8), người lớn khôn (9,21), người bị loại trừ khỏi kinh tế, xã hội, tôn giáo.

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và anh mù

Cuộc gặp gỡ xảy ra sau khi Chúa Giêsu tranh luận với “người Do Thái”, giới đạo đức Pharisêu (8,12-59) và đi ngang qua anh mù (8,59 – 9,1). Đối thoại giữa thầy Giêsu và môn đệ cho thấy quan niệm thời đó: mù lòa là do tội lỗi (của anh hoặc của cha mẹ anh). Quan niệm của Chúa Giêsu khác hẳn: anh mù này đơn giản là cơ hội để công trình cứu chuộc của Thiên Chúa được tỏ lộ. Qua đó, Người truyền đạt và chứng tỏ mình là ánh sáng mang lại sự sống cho các môn đệ khi có cơ hội (9,4; xx. 4,31-38; 5,17).
Sau khung cảnh trên, Chúa Giêsu chuyển sự chú ý về phía anh mù và thực hiện dấu lạ (9,6-7). Chúa Giêsu thực hiện dấu lạ qua chuỗi hành động không lời: nhổ nước bọt (spits), trộn thành bùn (makes) và xức lên mắt (anoints) (9,6). Sau khi bảo (gives command) anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôac, Chúa Giêsu ẩn mình đến lúc tái xuất hiện trong 9,35. Điểm đáng ghi nhận là: Silôac có nghĩa là: người được sai phái (sent), có thể ngầm hiểu Chúa Giêsu cũng là: Người Được Thiên Chúa Sai Phái (3,17, 34; 5,36; 6,29; 7,29; 8,42) và anh mù tìm thấy được ánh sáng sau khi rửa ở hồ cũng có thể được ngầm hiểu là anh đã lãnh nhận ơn ích từ chính sức mạnh của Người Được Thiên Chúa Sai Phái. Phép lạ được miêu tả qua chuỗi hành động ngắn: đi (went), rửa (washed) và trở lại sáng mắt (come back seeing). Liên kết với dấu lạ trước đó (5,1-18), Chúa Giêsu luôn đòi hỏi sự tham dự của người được chữa lành qua ước muốn và ‘đức tin”.
Chúa Giêsu chủ động tìm gặp người được chữa lành chứ họ không chủ động quay lại như mong đợi của người đọc. Việc chữa người mù thân xác có thể được liên tưởng đến việc chữa người mù tinh thần trong một chủ đề lớn hơn, nhưng Chúa Giêsu không chỉ quan tâm đến vấn đề ‘thiêng liêng’ mà còn muốn giải quyết vấn đề ở đây và bây giờ (here and now). Việc được chữa lành giúp người mù phục hồi vị trí kinh tế, xã hội và tôn giáo. Qua đó, Chúa Giêsu lịch sử trực tiếp đụng chạm đến tình trạng của con người trần thế. Hơn thế nữa, việc chữa lành thân xác dẫn đưa đến việc chữa lành thiêng liêng. Anh mù nhận ra Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống và ánh sáng thật, bởi vì khi anh kinh nghiệm Chúa Giêsu là Ánh sáng ban sự sáng (sight-giving Light) thì anh cũng kinh nghiệm Người là Ánh sáng ban sự sống (life-giving Light).

Đối mặt giữa anh mù và lãnh đạo tôn giáo

Gián đoạn 9,8-12 trình bày lý do anh mù được đưa đến cho các Pharisêu (9,13). Gián đoạn kể về việc người mù trở về trước sự ngỡ ngàng và phân vân của làng xóm. Cuối cùng, họ xác nhận anh chính là người mù lúc trước đó nhưng vẫn thắc mắc làm sao mà anh được chữa lành. Người mù đã làm chứng và ý thức người giúp anh là Giêsu. Thế nhưng, anh không biết Chúa Giêsu ở đâu (Where abouts – 9,12) vì Chúa Giêsu ẩn mặt đi hay chính anh không tìm đến Người. Ở mức độ khác, việc không biết Chúa Giêsu ở đâu (‘whereabouts’)  là vấn đề quan trọng trong trình thuật (9,16, 29, 33) cũng như xuyên suốt trong toàn bộ Tin Mừng (1,38-39; 7,27-28; 8,14; 19,9; 20,2).

Cuộc thẩm vấn đầu tiên

Ai nghe anh mù giải thích cũng không thỏa mãn nên họ đưa anh đến gặp các vị lãnh đạo tôn giáo (9,13). Làm phép lạ trong ngày Sa-bát một lần nữa gây tức giận cho người “Do Thái” và đây cũng là lý do chính cho các hành động chống đối Người. Trả lời câu hỏi khởi đầu cho việc điều tra mang tính hệ thống và nghiêm ngặt hơn câu chuyện trước đó (Ga 5), người mù dường như có ý bảo vệ người cứu chữa mình: (i) không gọi tên, (ii) dùng động từ thoa (put) thay vì trộn (make) bùn, và (iii) bỏ qua lời Chúa Giêsu đã phán cùng anh: “đi và rửa” (9,7; 11). Điểm khác biệt giữa anh mù và người bại liệt là anh không có hành động gì sai trong ngày Sa-bát vì chỉ rửa mặt chứ không vác chỏng.
Lời chứng của anh mù đã gây chia rẻ trong giới chức tôn giáo Do Thái. Tất cả họ ghi nhận dấu lạ nhưng không chấp nhận hành động trong ngày Sa-bát. Một nhóm phân vân vì không phải Người của Thiên Chúa thì không thể làm dấu lạ, nhóm khác lại cho rằng nếu là Người của Thiên Chúa thì phải giữ ngày Sa-bát. Carson nhận định: lý lẻ của nhóm thứ nhất xem ra không thuyết phục vì không hẳn chỉ có người của Thiên Chúa mới làm được dấu lạ, nhóm thứ hai xem ra hợp lý hơn vì tiền đề của họ coi Chúa Giêsu không phải là Người của Thiên Chúa. Thế nhưng, người đọc đã biết Chúa Giêsu là Người được Thiên Chúa Sai Phái nên lập luận của hai nhóm đều không chính xác. Chỉ có Ni-cô-đê-mô là chính xác vì ông cho rằng: Chúa Giêsu làm dấu lạ thì chắc chắn Người đến từ Thiên Chúa (3,2), chỉ đáng tiếc chỉ có một mình ông có tiến trình đức tin và hiểu biết về Chúa Giêsu nên chưa đủ thuyết phục nhóm còn lại. Đoạn trích cho thấy tiến trình thấu hiểu Chúa Giêsu của anh mù, từ một người có tên là Giêsu (9,11) đến việc xác nhận Người là một ngôn sứ (9,17). Có lẻ anh còn tiến xa hơn nhưng lại bị gián đoạn bởi lời chứng của cha mẹ anh. Họ là những người sợ ‘người Do Thái’ và từ chối làm chứng. Điều này thể hiện sự lên án nhẹ nhàng của Tin Mừng Gioan khi đưa ra bằng chứng đối nghịch giữa cha mẹ và người con.

Cuộc thẩm vấn thứ hai

‘Nguời Do Thái’ lại triệu tập và thẩm vấn anh mù (9,24), và lần này anh mù trở thành một nhân chứng thông minh, đồng thời anh làm người thẩm vấn khó chịu. Phe kết án dường như đã thắng thế khi kết luận ‘chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi’ (9,24) và không thấy sự phản khán hay xuất hiện của phe kia. ‘Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa’ là đoạn trích từ Giô-suê 7,19 nhằm cổ võ anh mù nói sự thật. Anh mù đã nói sự thật nhưng không đồng ý với người thẩm vấn, thật ra anh đã nhấn mạnh kiến thức thực nghiệm của anh là: “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!"(Ga 9,25). Thay vì trả lời lại câu hỏi trước đó, anh mù đáp trả thẳng thắn rằng anh đã trả lời và hỏi kháy: ‘hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?’ (9,27). Lời xuất phát từ miệng lưỡi anh mù đã làm phật lòng người thẩm vấn và họ quay lại mắng nhiếc anh. Thay vì bị dọa nạt, anh mù càng trở nên tự tin hơn, anh giữ vững kiến thức anh ghi nhận được và sẳn sàng đối mặt, bắt bẻ người thẩm vấn vốn có rất ít kiến thức về Chúa Giêsu – Người đến từ Thiên Chúa. Bọn thẩm vấn tức giận và đáp lại anh mù bằng chuỗi hành động: tố cáo (accuse), hỏi ‘kháy’ (charge), và trục xuất (expel). Anh mù đã luôn xác tín Chúa Giêsu là Người Được Thiên Chúa Sai Phái và là Đấng Ban Sự Sáng.

Gặp gỡ sâu sắc hơn giữa Đức Giêsu và anh mù

Chúa Giêsu tìm anh mù sau khi anh bị trục xuất (9,35) như đã có lần thực hiện trước đó (5,14). Người mù nhận ra Chúa Giêsu bởi giọng nói vì đây là lần đầu tiên anh thấy Nguời. Chúa Giêsu đã dùng danh hiệu ‘Con Nguời’ (the Son of Man), vốn thường liên hệ đến cái chết nhấn mạnh việc ‘được nâng lên’ (lifted up) (3,14; 6,62; 8,28; 12,34) nhưng cũng chứng tỏ Người là trung gian nối đất với trời, để hỏi anh mù. Người trao cho anh mù cơ hội đụng chạm đến thực tế thiêng liêng. Anh mù rất muốn biết Con Người nhưng không biết Người là ai. Cuối cùng, anh đã phủ phục và tuyên xưng đức tin khi được Chúa Giêsu tỏ lộ cho biết Người là cũng chính là Con Người. Đỉnh cao của câu chuyện là việc tuyên xưng trên môi miệng và hành động không lời của anh mù. Câu chuyện ngắn nhưng cũng thể hiện rõ nét tiến trình thông hiểu của anh mù: người có tên Giêsu (9,11), một ngôn sứ (9,17), người đến từ Thiên Chúa (9,33) và Chúa (Lord – 9,38). Trong câu 9,39, Chúa Giêsu kết luận hàm ý rằng Người đến như ánh sáng chiếu soi trần gian: những ai thiếu ánh sáng đức tin (anh mù) sẽ được soi sáng, những ai tự phụ thấy rõ (Pharisêu) sẽ trở nên mù tối. Quả thế, kết thúc trình thuật người mù được soi sáng cả về thể xác lẫn tinh thần, trong khi phái Pharisêu đã trở nên mù tối (ngoại trừ Ni-cô-đê-mô).

Kết luận

Chúa Giêsu đến để chiếu tỏa anh sáng trong vùng u tối vì Người là ánh sáng mang lại sự sống. Điểm mù tối có thể được chiếu sáng nếu mỗi người biết nhận ra bóng tối của chính mình. Gioan đưa ra 3 sự đối nghịch trong Ga 9: (i) anh mù bẫm sinh dần được soi sáng cả thể xác lẫn tinh thần – phái Pharisêu tưởng mình rõ ràng nhưng tinh thần dần mù tối; (ii) anh mù làm chứng trước giới chức tôn giáo, sẳn sàng chịu bách hại – cha mẹ anh lại từ chối trong sợ hãi; (iii) anh mù dần dần thông hiểu Chúa Giêsu, tiến tới đức tin cứu độ - người đau ốm lo sợ và phản bội Chúa Giêsu (Ga 5). Từ đó, hình ảnh anh mù nổi lên các đặc điểm: vâng phục (9,7b), can đảm, thông minh, cởi mở, sẳn sàng làm chứng, và trung thành với Chúa Giêsu. Người mù thể hiện tiến trình phát triển từ một bề ngoài nhiều yếu kém về văn hóa – xã hội đến một người hiểu rõ khả năng bản thân và nhận biết Chúa Giêsu. Đoạn trích thể hiện anh mù là người: hiểu biết tình trạng của chính anh (9,25), hiểu biết về Thiên Chúa (9,31) và tin vào Chúa Giêsu (9,38). Anh mù có thể được xem là lý chứng nổi bật cho hình ảnh một người môn đệ đích thực. Anh biết rõ tình trạng tăm tối để được sáng soi, sẳn sàng làm chứng, đối mặt với quan quyền khi gặp bách hại và nhất là phát triển hiểu biết về thầy Giêsu theo thời gian.


(Tài liệu: Cornelis Bennema, Encountering Jesus- Character Studies in the Gospel of John)

No comments: