Wednesday, July 26, 2017

Lòng tham ... (Collection)


Thượng đế tạo ra con lừa và nói với nó rằng:
Ngươi là con lừa. Từ sáng đến tối, ngươi phải làm việc, trên lưng phải mang vác vật nặng. Thức ăn của ngươi là cỏ và ngươi thiếu trí khôn. Ta ban cho ngươi tuổi thọ 50 năm.
Con lừa cầu xin Thượng đế:
Chúa của con ơi, 50 năm chẳng phải là quá dài sao? Hãy giảm bớt cho con 30 năm.
Thượng đế bèn đồng ý.

Rồi Người tạo ra con chó:
Ngươi đấy, lúc nào ngươi cũng phải sống trong cảnh giác! Ngươi được làm bạn bên cạnh loài người, ngươi ăn thức ăn thừa của loài người. Tuổi thọ của ngươi là 25 năm.
Con chó cầu xin Thượng đế:
Chúa của con ơi, 25 năm phải chăng quá dài? Xin Người hãy giảm cho con 15 năm.
Thượng đế cũng đồng ý.

Thượng đế tạo ra con khỉ. Người nói với nó:
Khỉ à! Ngươi sẽ sống trên cây, giống như tên ngốc khiến người ta buồn cười. Sinh mạng của ngươi là 20 năm.
Con khỉ chớp chớp mắt, hỏi Thượng đế:
Chúa của con ơi, 20 năm thật quá dài. Xin Người hãy giảm cho con 10 năm sinh mạng.
Thượng đế cũng đáp ứng yêu cầu của nó.

Cuối cùng, Thượng đế tạo ra con người. Thượng đế nói:
Con người! Ngươi phải sống bằng đầu óc, dùng trí tuệ nắm bắt tất cả, chi phối tất cả thế gian này. Tuổi thọ của ngươi là 20 năm.
Con người nghe xong trả lời thế này:
Thưa Thượng đế, 20 năm chẳng phải quá ngắn ư? Xin Người hãy ban cho con 30 năm sinh mạng mà con lừa từ chối nhận, 15 năm sinh mạng mà con chó từ bỏ và 10 năm sinh mạng mà cho khỉ cự tuyệt có được không?
Thượng đế cũng bằng lòng chấp nhận yêu cầu của con người.
…..
Ý nghĩa đằng sau câu chuyện: 
Đây là một câu chuyện ngụ ngôn đặc sắc được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Do Thái. Con người đã sống một cuộc đời như Thượng đế sắp đặt. Trước tiên, con người được sống những ngày tháng thoải mái trong 20 năm của mình. Tiếp theo đó, con người sẽ thành gia lập nghiệp, mang theo gánh nặng công việc và gia đình trên lưng, cố sức làm việc, giống như cuộc sống của con lừa. Sau đó, con người lại sống như con chó, trông coi và bảo vệ con cái của mình, ăn phần dư thừa còn lại sau khi đã lo xong cho con cái. Đến khi về già, con người lại sống như con khỉ, diễn trò hề chọc cười đám cháu.

Lòng tham của con người đã khiến bản thân phải sống một cuộc đời nhiều thăng trầm. Chính nhờ có quan điểm về cuộc đời như thế mà người Do Thái luôn biết khi nào bản thân nên dừng lại.

Thursday, July 20, 2017

Vài điểm nhìn nhận về chủ nghĩa vô thần theo nhãn quan của Karl Marx (1818-1883)

Marx sinh tại thành phố Trier, Đức. Cha mẹ ông là người Do Thái cải sang giáo phái Luther khi ông sáu tuổi; nhưng chính bản thân ông lại chống tôn giáo quyết liệt khi còn ở tuổi thiếu niên. Thậm chí lúc ấy ông đã xác tín rằng: “Phê bình tôn giáo là nền tảng của mọi thứ phê bình”[1] Liệu chúng ta có thể nhận định Marx là một người phê bình tôn giáo đích thực hay không? Sức mạnh của Marxism có thật sự mạnh mẽ như một số người đã tin theo và ca ngợi. Bài viết sẽ lần lượt đi qua những điểm chính (1) các tư tưởng triết học tác động lên Marx, (2) nền tảng phê bình tôn giáo của Marx, (3) đặc điểm phê bình tôn giáo của Marx và (4) một vài nhận định để đưa ra những kết luận.

1.      Các tư tưởng triết học tác động lên Marx

Marx chịu ảnh hưởng của hai nhà tư tưởng chính là Hegel và Feuerbach. Trước hết, một trong những điểm Hegel gây ấn tượng trên Marx là hệ quả “đồng hóa Thượng Đế với con người”[2] của nhóm Hegel trẻ. Vì thế, “nhóm Hegel trẻ coi triết lý tách biệt ra khỏi tôn giáo và nhìn tôn giáo theo quan điểm chính trị - tôn giáo như điểm tựa của trật tự bảo thủ (bênh vực quyền lợi giai cấp)”[3]. Mặt khác, Marx ảnh hưởng bởi tư tưởng của Hegel là “sự nhìn nhận rằng lịch sử là một tiến trình phát triển và thay đổi từ hình thức ít hoàn hảo sang những hình thức hoàn hảo hơn trong toàn thể thực tại …”[4] Đây cũng là cơ sở cho lịch sử tính trong nền tảng triết học của Marx. Tiếp đến, dưới ảnh hưởng của Feuerbach, Marx “bác bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hegel, thay thế nó bằng quan điểm rằng thực tại cơ bản là vật chất.[5] Ông nói về tình trạng con người là vong thân, phóng thể. Vì “trong tâm thức tôn giáo, con người bị phân đôi, đánh mất chính mình.”[6] Con người không thừa nhận mình mà “phóng chiếu mình vào Thiên Chúa, như là sự khách thể hóa. Cũng vì thế mà “con người tôn giáo là con người vong thân, bị lầm lạc và cần được điều chỉnh”[7] Vì thế, Thiên Chúa chẳng qua là con người mà thôi, nên nếu có thờ thì thờ nhân loại mới đúng. Nói tóm lại, Marx đã rút ra tính lịch sử của Hegel qua phép biện chứng và nhấn mạnh tính vật chất của Feuerbach để tạo nên quan điểm duy vật lịch sử hay duy vật biện chứng.

2.      Nền tảng phê bình tôn giáo của Marx

Với lịch sử tính, Marx đã đưa các thời kỳ lịch sử với 5 giai đoạn chính[8]. Ông thừa nhận phép biện chứng của Hegel với sự phát triển qua chính đề, phản đề và hợp đề. Từ hợp đề đó lại tạo ra một chính đề mới và quá trình cứ tiếp tục như thế. Qua kết hợp với ảnh hưởng của Feuerbach, Marx đã cung cấp cơ sở vật chất cho phép biện chứng đã nêu. Ông đã đưa ra nhận định rằng “ý tưởng không là gì khác hơn là thế giới vật chất được phản chiếu bởi trí khôn con người, và được chuyển thành các hình thức tư tưởng”[9] Đó chính là duy vật biện chứng theo cách nhìn nhấn mạnh đến phương pháp luận qua các tiến trình xã hội, hay đúng hơn nên gọi là duy vật lịch sử mới phản ánh đúng bản chất của nền tảng triết học này.

3.      Đặc điểm phê bình tôn giáo của Marx

a.       Tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng

Marx xác định, “con người làm ra tôn giáo chứ tôn giáo không làm ra con người”. Đồng thời, ông đưa ra một loạt những tuyên bố “tôn giáo là sự thể hiện bản chất của con người trong tưởng tượng”; “tôn giáo là tiếng than vãn của thọ tạo bị đàn áp, là tâm hồn của một thế giới vô tâm, cũng như tôn giáo là tinh thần của những tình huống vắng bóng tinh thần. Lập luận của Marx đưa đến kết luận phê bình tôn giáo cũng là “phê bình cái miền đất bi thảm mà tôn giáo là hào quang thiêng thánh.”[10] Như thế, ông đã khắc họa tôn giáo như tình trạng vong thân theo cách hiểu của Feuerbach và cần phải phê bình “tôn giáo, nhất là Kitô Giáo, là một hiện tượng lỗi thời, các Giáo hội thì tỏ vẻ thù nghịch với tiến bộ và tự do.”[11] Như thế, Marx như là một chuyên viên cai nghiện khi xác định tôn giáo như là thuốc phiện đã làm người tín hữu ra yếu nhược. Ông thuyết phục mọi người trở lại với thế giới vật chất mà con người là trung tâm vì “tôn giáo chỉ là mặt trời ảo vận động chung quanh con người bao lâu con người không vận động chung quanh chính mình.” Nếu tôn giáo chỉ là chất kích thích đem lại những khoái cảm giả tạo, chóng qua mà có khi còn nguy hại nữa thì nó có gì đáng quý đâu?! Với duy vật lịch sử, Marx đưa đến kết luận, “phê bình thượng giới thành phê bình cõi trần, phê bình tôn giáo thành phê bình pháp chế, phê bình thần học thành phê bình chính trị”[12]
b.       Phê bình tôn giáo nhân danh xã hội và sự phát triển xã hội
Marx đã phê bình “Feuerbach không thấy rằng “tâm hồn tôn giáo” tự nó đã là một sản phẩm xã hội”, và cá nhân trong thực tế là thành viên của một mô hình xã hội nhất định. Từ đó, ông xác định “con người là một tổng thể các quan hệ xã hội”[13] Ông đã nhấn mạnh “chúng ta đi từ dưới đất lên trời” hoàn toàn ngược lại với triết lý Đức đi từ trời xuống.[14] Với cách nhìn duy vật, Marx xác định “không phải ý thức chi phối cuộc sống mà là cuộc sống chi phối ý thức.”[15] Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, “tôn giáo chỉ diễn tả trạng huống căn bản, trong đó con người là nạn nhân một nền kinh tế vô nhân đạo và bị vong thân về phương diện xã hội”[16]
 c.       Xóa bỏ tình trạng vong thân
Marx khẳng định “con người là hữu thể tối thượng cho con người.”[17] Điều này đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng tha hóa[18], hay vật hóa của con người[19]. Ông đưa ra nhận định “vong thân về mặt tôn giáo trong bản chất chỉ là diễn ra trong lãnh vực của ý thức bên trong con người, chứ vong thân về mặt kinh tế là cảnh vong thân của đời thật”[20] Vì thế, vong thân trong lao động, tức là vong thân toàn diện, mất tính người, không còn hòa hợp với thiên nhiên và với người đồng loại nữa. Điều này xảy ra một phần là vì phải đi làm công, đi làm mướn. Để giải quyết vấn đề này, Marx đã đưa ra một giải pháp thiết thực là “chủ nghĩa cộng sản” sẽ xóa bỏ tư hữu xét như tình trạng vong thân của con người để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản sẽ xóa bỏ giai cấp, tiêu diệt tư bản – một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đối kháng và xung đột.[21] Măt khác, Marx phân tích chủ nghĩa vô thần – một sự phủ định Thiên Chúa – đã xác lập sự hiện hữu của con người. Thế nhưng, chủ nghĩa xã hội thì không cần qua bước trung gian này. Trong chủ nghĩa xã hội, con người sẽ “ý thức về chính mình theo nghĩa tích cực” là hiện thực là đời sống thực.[22] Do đó, chủ nghĩa xã hội sẽ là xã hội phát triển nhất và xóa bỏ đi những vấn đề xã hội đang gặp phải trong đó có vấn đề tôn giáo.

4.      Một vài nhận định

a.       Ưu điểm

Tôn giáo sẽ xem lại bản chất đích thực của mình khi bắt gặp nhận định rằng “phê bình tôn giáo của Marx như một phê bình chỉ chích ý thức hệ của giới Kitô Giáo tư sản ở thế kỷ 19 vốn dính dấp với công cuộc Phục hưng chính trị (politische Retauration)”[23]
Cũng như phê bình của Feuerbach, Marx nhấn mạnh đến con người qua tình trạng vong thân. Điều này giúp mỗi người tín hữu, đặc biệt là Kitô hữu, đặt lại vấn đề về đức Tin về một Thiên Chúa đúng nghĩa là như thế nào? Có phải Ngài chỉ là phóng chiếu hay là một Đấng giải quyết các vấn đề?
b.       Khuyết điểm
Marx đã xác định “đối với nước Đức thì việc phê phán tôn giáo, về thực chất, đã kết thúc và phê phán tôn giáo là tiền đề của mọi phê phán khác”[24] Vì thế, Marx từ chối trực tiếp phê bình tôn giáo nhưng gián tiếp bài xích tôn giáo khi xây dựng học thuyết xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận định là “vô tri bất mộ” vì ông đã đánh giá cao việc phê bình nhưng không để tâm nghiên cứu sâu về bản chất tôn giáo thực sự.
Marx gặp vấn đề khi cho rằng “ý thức là phản ánh của thực tại?” Ông “thường nói là học thuyết cộng sản của ông là do ba trào lưu kết lại: một là triết học của người Đức (Hegel và Feuerbach), hai là xã hội chủ nghĩa của người Pháp, ba là kinh tế học của người Anh. Vì thế ông đinh ninh là chế độ cộng sản rồi đây sẽ được thực hiện trong ba nước đó trước tiên.” Điều này cho thấy mâu thuẩn là ý thức đã đi trước thực tại trong khi họ chủ trương con người chỉ được quy định ở giây phút hiện tại mà thôi.
Mặt khác, khi xem “con người là hữu thể tối thượng cho con người” và muốn xóa bỏ tình trạng “vong thân” trên tất cả các lĩnh vực. Marx đã sai lầm khi lẫn lộn giữa giải thích khoa học và giải thích hữu thể luận. Ông đã lẫn lộn giữa sự độc lập kinh tế xã hội với sự độc lập hữu thể, là sự độc lập thuộc hai bình diện khác nhau.
Thay lời kết
 Từ những nội dung đã nêu, bài viết đồng ý với cách nhìn là Marx đã có quan điểm phê bình khác với một số người đương thời là phê bình không còn có nghĩa là phê phán một cách trung lập, không thiên vị, nhưng có nghĩa là tấn công. Ông đã không những tấn công bằng bài vở, bằng miệng lưỡi (chửi mắng), nhưng thực tế đã chứng minh là còn phải phê bình bằng khí giới qua bạo lực cách mạng. Vì thế phê bình ai tức là tấn công người ấy, phê bình tôn giáo tức là tấn công tôn giáo vậy.”[25] Xét trên phương diện này, Marx đã không là một người phê bình tôn giáo thực sự. Cũng thế, sức mạnh của chủ nghĩa Marxism đã không đem lại lợi ích thật sự mà chỉ phục vụ cho một lớp người thống trị mượn danh “vô sản”.



THƯ MỤC
Phê Bình Tôn Giáo Qua Các Tác Giả, Karl-Heinz Weger
Tổng Quát Về Vô Thần, Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Lưu hành nội bộ, Thủ Đức 2013.
Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, Samuel Enoch Stumpf, Đỗ Văn Thuấn – Lưu Văn Hy biên dịch, NXB Lao Động: Hà Nội – 2004
Karl Marx Phê Bình Tôn Giáo, Trần Văn Toàn, http://lamhong.org/2011/09/28/karl-marx-phe-binh-ton-giao/, truy cập 10/11/2103.
Câu Chuyện Triết Học, Bryan Magee, Huỳnh Phan Anh – Mai Sơn dịch, NXB Thống Kê.
Khóa học về Lịch sử Triết học thời Cận Đại, Vũ Kim Chính, tháng 10-2013 tại Học viện Thánh Giuse, Dòng Tên.
Con Người và Vấn Đề Thượng Đế, Lm. Louis Leahy, S.J, , Phân Khoa Thần Học, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà Lạt, Viêt Nam 1974. Bản điện tử, Phê Bình Thuyết Vô Thần Của Karl Marx, Lam Hồng thực hiện, phần I: http://lamhong.org/2011/10/09/phe-binh-thuy%E1%BA%BFt-vo-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-karl-marx/ ; Phần II: http://lamhong.org/2011/10/11/phe-binh-thuy%E1%BA%BFt-vo-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-karl-marx-ti%E1%BA%BFp/





[1] Bryan Magee, Câu Chuyện Triết Học, Huỳnh Phan Anh – Mai Sơn dịch, NXB Thống Kê, 208.
[2] Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn – Lưu Văn Hy biên dịch, (NXB Lao Động: Hà Nội – 2004), 321.
[3] Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R, Tổng Quát Về Vô Thần (Lưu hành nội bộ, Thủ Đức 2013), 39.
[4] Samuel Enoch Stumpf, op. cit., 321.
[5] Ibid., 322.
[6] Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R, op. cit., 35.
[7] Ibid., 40.
[8] “(1) công xã nguyên thủy, (2) nô lệ, (3) phong kiến, (4) tư bản, và, ông tiên báo thời ký tiếp theo, (5) xã hội chủ nghĩa và cộng sản” (Samuel Enoch Stumpf. Op. cit., 324)
[9] Ibid.
[10] Karl-Heinz Weger, op. cit., 125-126.
[11] Karl-Heinz Weger, op. cit., 123.
[12] Ibid., 127.
[13] Ibid., 132.
[14] Ibid., 133.
[15] Ibid., 134.
[16] Lm. Louis Leahy, S.J, Con Người và Vấn Đề Thượng Đế, Phân Khoa Thần Học, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà Lạt, Viêt Nam 1974. Bản điện tử, Phê Bình Thuyết Vô Thần Của Karl Marx, Lam Hồng thực hiện, http://lamhong.org/2011/10/09/phe-binh-thuy%E1%BA%BFt-vo-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-karl-marx/
[17] Karl-Heinz Weger, Op. cit., 127.
[18]  Theo cách hiểu của Hegel thì tha hóa là vấn đề chủ nô. Có chủ phải có nô, có nô thì mới có chủ. Xã hội chủ nô có sự áp bức, có bất công, đó là sự tha hóa. Marx đã đề cập tới vấn đề này trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản kêu gọi mọi người đoàn kết lại với nhau để được giải phóng. Khi tất cả đều vô sản thì không còn chủ nô nữa. Tra cứu thêm trong cuốn “Ý thức và giai cấp” của György Lukács. (Vũ Kim Chính, Khóa học về Lịch sử Triết học thời Cận Đại, tháng 10-2013 tại Học viện Thánh Giuse, Dòng Tên.)
[19] Mô tả đặc biệt trong “tiếng kêu của một người Pháp thốt lên nhân dự án về thuế nuôi chó: “Tội nghiệp quá chó ơi! Người ta định đối xử với mày như với con người vậy!” Ibid, 127.
[20] Ibid., 129.
[21] Đối kháng giữa người và thiên nhiên, giữa con người với nhau, … xung đột giữa hiện hữu (Existenz) và yếu tính, giữa việc đối tượng hóa và việc xác định bản thân, giữa tự do và tất yếu, giữa cá nhân và loài. (Ibid., 128)
[22] Ibid., 130.
[23] Ibid., 122.
[24] Ibid., 125.
[25] Trần Văn Toàn, Karl Marx Phê Bình Tôn Giáo, http://lamhong.org/2011/09/28/karl-marx-phe-binh-ton-giao/

Wednesday, July 19, 2017

Chúng ta suy tư dưới ánh sáng của hữu thể. Tại sao?


Siêu hình học là “nghiên cứu về hữu thể xét như hữu thể.”[1] Trong qua trình nghiên cứu này, sau khi đã tìm hiểu về khái niệm siêu hình học như là một lịch sử sơ lược về môn này, vấn đề “kinh nghiệm căn bản về hữu thể” được đặt ra. Xuất hiện trong tiến trình này “cùng với ý niệm hữu thể” thì một câu hỏi được đặt ra là tại sao có thể nói “chúng ta suy tư dưới ánh sáng của hữu thể?” Để trả lời cho câu hỏi này, bài viết sẽ lần lượt giải thích về vấn đề cốt yếu trong câu hỏi, trả lời câu hỏi tại sao và đưa ra một cách thức suy tư dưới ánh sáng hữu thể như thế nào?
Ánh sáng hữu thể là gì?
Ánh sáng ở đây không hiểu đơn thuần là sự tồn tại vật lý theo dạng hạt hay sóng. Với ý nghĩa ẩn dụ, ánh sáng được hiểu như là sự soi chiếu để các vật chất thể hiện nó ra như nó là. Như thế, theo một cách nhìn nào đó, sự vật xuất hiện và được tri nhận khi có ánh sáng và nếu thiếu vắng ánh sáng thì sự vật không được thể hiện hay không được tri nhận đúng mực. Điều này được thể hiện rõ trong ẩn dụ cái hang của Platone. Khi các tù nhân ở trong hang thì sự vật được tri nhận chỉ là ảo ảnh của những cái bóng. Giả xử, ngọn lửa trong hang cũng bị dập tắt thì bóng đêm mịt mù với sự thiếu vắng hoàn toàn của ánh sáng sẽ xuất hiện và mọi thứ được bao trùm với một màu đen tối tăm. Ngược lại, khi người tù nhân vượt qua hành trình khó khăn để lên khỏi hang thì kết quả đạt được là sự vật xuất hiện như nó là. Ánh sáng của hữu thể tuyệt đối trong ẩn dụ này như là mặt trời đã soi chiếu để chúng ta thấy được các sự vật hiện tượng hữu hạn. Nhưng ý nghĩa ánh sáng hữu thể không dừng lại ở đó, chính trong sự vật khi xuất hiện như là nó là thì chính nó cũng đã mang “ánh sáng hữu thể”. Chúng ta suy tư “dưới ánh sáng của hữu/im Lichte des Seins”, cũng được Heidegger trong Thư về chủ nghĩa nhân bản/Brief über den Humanimus 1946, [2]  là chúng ta tri nhận một thực tại nhưng lưỡng diện theo nghĩa là “có cái gì đó tồn tại”.[3]
Tại sao có thể nói như vậy?
Bởi vì, trong lúc suy tư, chúng ta không thể suy tư về một cái không gì hay “cái trống rỗng”. Ngay cả trong ẩn dụ đã được đề cập, những người tù dường như rơi vào tình trạng ‘trống rỗng” khi ngọn đuốc trong hang bị dập tắt đi. Nhưng ít ra, với nhận thức bình thường, những người tù nhân vẫn nhận ra một ý niệm về sự tồn tại của một trường hợp thiếu vắng ánh sáng hoàn toàn là cái gì. Theo một cách hiểu khác, khi chúng ta tìm hiểu về cái hữu thì nó xuất hiện như là thế được nhìn thấy. Con người với tư cách là chủ tri mở mình ra với hữu thể theo khía cạnh khách quan, quan điểm nhân vặn luận và nhãn quan lịch sử. Ngược lại, hữu thể thể hiện chính nó nơi tư duy, không chỉ đơn thuần là ý niệm, mà như nó là cho tôi.[4] “Cái gì đó tồn tại” với cấu trúc căn bản, nguyên lý sự hữu (actus esendi) và nguyên lý định dạng (essentia), mang tính hữu hạn, đa bội và bất tất đã được hợp pháp hóa và làm cho khả tri.[5] Cái hữu đã hiện tỏ ra trong sự tri nhận của chúng ta. Sau một loạt các nhận định về hiện vật trong các chủ thuyết như là tinh thần, vật chất và năng lực, biến dịch và đời sống, hiện trình, ý muốn, bản thể, chủ thể, đồng thể, Heidegger cũng đã khẳng định “hữu thể soi sáng mọi nơi mà siêu hình học hiện trình sự vật.”[6] Hơn nữa, giá trị hiển nhiên được đề cập đến “được áp dụng cho tất cả các thực tại dù là cái có thể hoặc được nghĩ về”. Dù là hình thế (forma) hay những hữu thể thuộc trí đều phải được nhận thức trong qui chiếu khách quan với sự vật hiện tượng cụ thể.[7] Điều được xem xét ở đây là chúng có tồn tại như chúng là hơn là chúng tồn tại trong hình thức nào. Cũng chính trong thế giới ý niệm của Platone, hữu thể xem ra tồn tại chỉ là ảo ảnh và trừu tượng nhưng thật ra chúng tồn tại như khẳng định “hiện hữu thực sự của thực tại đều thiết yếu có tính cách thường tồn”[8] Chung quy lại, cùng với ý niệm hữu thể là một sự hiện diện thường hằng.
 Chúng ta có thể suy tư dưới ánh sáng này như thế nào?
 Đó là trong một sự “ngẫu nhiên”, người tù được phá bỏ xiềng xích và bắt đầu lần mò với bản chất muốn tìm hiểu để thỏa mãn “khát vọng” hay chỉ đơn thuần là sự “tò mò”. Từ đó, chúng ta như người tù được tự do có được “cuộc gặp gỡ ngây thơ” (Husserl) với sự vật xét như nó là qua nhiều lần “trắc diện”. Điều này có thể không được chúng ta ý thức đủ nên với hiện tượng luận, Husserl mời gọi chúng ta thực hiện ba bước giảm trừ (triết học, bản chất, hiện tượng luận) để “trở về với các sự vật”. Để rồi từ đó, đối tượng với hai đặc tính là bất thấu tính và siêu việt tính của nó sẽ xuất hiện như nó là và cho chính chúng ta. Trong cách diễn đạt khác, chúng ta tri nhận sự hữu như nó là theo ý hướng tính với tác động từ hai phía. Trong đó, một điều không thể phủ nhận là “ánh sáng của hữu thể” đã soi dẫn cho suy tư của chúng ta.
 Tóm lại, có một sự đồng thuận là chúng ta không thể tri nhận được cái hữu vô hạn bằng tồn tại hữu hạn của chúng ta. Vì thế, vấn đề suy tư dưới ánh sáng của hữu thể dù đã được giải thích như là một sự tri nhận “có cái gì đó tồn tại”; đưa ra lý do về thực tại “thực sự tồn tại” trong thế giới khả nghiệm để trả lời và đề cập đến hiện tượng luận của Hesserl như là cách thức giải quyết vấn đề thì cũng chưa thể giải quyết vấn đề một cách rốt ráo. Thế nhưng với bản chất muốn thỏa mãn khát vọng hiểu biết hay yêu mến sự khôn ngoan và dưới sự soi sáng của cái gọi là “Ipsum Esse Subsistens”, chúng ta tin tưởng có thể bước đi trên nẻo đường hữu thể. Ví như, Đức Giáo Hoàng danh dự đã viết “sự hiện hữu của Đức Giêsu trong ánh sáng của Thiên Chúa, sự hiện hữu là ánh sáng của Người Con[9] cũng phần nào gợi hứng cho một suy tư về vấn đề “ánh sáng của hữu thể”.



[1] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 26.
[2] ĐẶNG Phùng Quân, Triết học nào cho thế kỷ 21,17/09/2013,  http://www.gio-o.com/DangPhungQuanTheKy2127.htm
[3] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 115.
[4] Sđd, 106
[5] Sđd, 161
[6] Martin Heideger, Tác phẩm triết học, Trần Công Tiến dịch, (NXB ĐH Sư Phạm), 24.
[7] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 115-116.
[8] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 75.
[9] Joseph Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth, phần I, Lm Aug NGUYỄN Văn Trinh dịch, (NXB Tôn Giáo), 411.

Tuesday, July 18, 2017

Karl Rahner, một vài tư tưởng về mặc khải

Đức Tin và Mặc Khải được ví von như đôi cánh giúp nâng con người lên với Thiên Chúa. Hai phạm trù này cũng là tâm điểm của nền Thần học Nền tảng sánh vai cùng Thần học Tín lý tạo thành nền Thần học Hệ thống. Xét riêng về phạm trù mặc khải có nội dung tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ với ý nghĩa là cách thông tri (communication) những thông tin có thể được thể hiện rõ ràng qua ngôn ngữ (câu nói, mệnh đề) dần dần được thay thế bằng cách hiểu một cách cơ bản là một Thiên Chúa tự mặc khải.[1] Mặc khải khởi đi từ cách hiểu vén mở bức màn nhưng dần dần trở thành trọng tâm bàn luận để trả lời hay đối thoại với chủ nghĩa duy lý. Hòa vào trong hệ thống tư tưởng thần học, các thần học gia không ngừng lãnh nhận, nghiên cứu và đưa ra những quan điểm thần học khác nhau về mặc khải. Một trong những nhà thần học nổi bật và có sức ảnh hưởng lớn trong nền thần học thế kỉ XX là Karl Rahner. Ông vốn đam mê tra vấn triết học nhưng con đường lý trí lại dẫn đưa về nẻo đường đức tin của thần học. Các tác phẩm của ông bàn về nhiều chủ đề khác nhau của thần học. Bài viết giới hạn trong các tác phẩm The content of faith, Encounters with Silence, The Trinity với những góp nhặt tư tưởng của Karl Rahner khi ông trình bày về nội dung mặc khải.
Trước hết, thuật ngữ siêu nghiệm dễ đưa dẫn người đọc lầm tưởng về nền tảng siêu hình của triết học Kant vốn có sức ảnh hưởng lớn trong hệ thống tư duy xã hội Tây phương. Karen Kilby, một nhà nghiên cứu về Karl Rahner, gợi ý cách hiểu thuật ngữ siêu nghiệm dựa trên hai sự phân biệt. Thứ nhất là sự phân biệt giữa cách sử dụng khác nhau của chính Rahner. Thứ hai là phân biệt giữa những cách sử dụng của Rahner và những người khác sử dụng khi nói về ông. Tựu trung, siêu nghiệm được hiểu trong liên hệ mang đặc tính siêu nghiệm (tính siêu nghiệm của con người, mặc khải siêu nghiệm, kinh nghiệm siêu nghiệm …) và trong việc nghiên cứu thuộc về siêu nghiệm (phương pháp siêu nghiệm, thần học hay triết học siêu nghiệm …). Theo Rahner, tính siêu nghiệm trong mặc khải được trình bày như cái gì đó tồn tại trong chúng ta, giúp chúng ta làm việc và vượt trội trên những giới hạn hơn là một phương pháp nghiên cứu.[2] Tính siêu nghiệm được hiểu như là tấm bảng tồn tại để chữ viết có thể được nhìn thấy, như là ánh sáng để mọi vật được phản chiếu và tri nhận hay như là nước để thủy vật bơi lội. Tính siêu nghiệm hiểu như là nền tảng và có đặc điểm vượt qua giới hạn tri thức bình thức của con người, cũng thế tính siêu nghiệm của Thiên Chúa cũng trỗi vượt hơn lý trí của con người nên cần nhờ đến ân sủng để nâng cấp trí khôn thì con người mới có khả năng tri nhận mặc khải siêu nhiên.
Trong nhiệm vụ truyền giáo của người Kitô hữu hay của Kitô giáo, Karl Rahner mời gọi những người tín hữu nhìn nhận người ngoại giáo như là các Kitô hữu vô danh (anonymous Christians). Để giải thích cho tư tưởng của mình, ông đưa ra thuật nghữ “mặc khải siêu nghiệm” như được bao hàm trong sự trao ban thông qua ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được minh chứng qua ân sủng.[3] Mặc khải siêu nhiên đề cập đến kinh nghiệm về Thiên Chúa có thể xảy ra bất nơi đâu và cho bất cứ ai. Qua đó, tác giả cho thấy tính phổ quát siêu nghiệm của mặc khải. Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho tất cả mọi người dù là tín hữu hay vô tín hữu (unbelievers). Sự khác biệt hay mâu thuẩn mang “tính tuyệt đối” (categorical) giữa trong và ngoài Kitô giáo đã được giải quyết theo nghĩa siêu vượt (transcended). Điều này diễn ra là nhờ vào mặc khải siêu nghiệm, được hiểu như là phương thức tự thông tri của Thiên Chúa đến với tất cả mọi người là những hữu thể siêu vượt (transcendent beings) mang trong mình phẩm tính siêu nghiệm. Trong kinh nghiệm về Đức Tin Kitô giáo, chúng ta tri nhận ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa với công trình của Chúa Giêsu Kitô qua mầu nhiệm nhập thể - cuộc đời – khổ nạn – chịu chết – phục sinh của Người. Lẻ dĩ nhiên, ơn cứu độ phổ quát với lòng thương xót vô hạn của Người không thể bị giới hạn ở những ai được gọi là Kitô hữu chính thức qua việc thuộc về giáo hội, qua bí tích rửa tội, qua việc tuyên xưng đức tin, hay qua các nghi thức tế lễ mà còn lan rộng đến các Kitô hữu vô danh vốn được nhìn nhận từ trong thực tế hiện hữu nội tâm của họ.[4] Quả thật, mỗi hữu thể tồn tại đều có tự do dùng lời “xin vâng” để đáp lại Lời Chúa qua mặc khải và đức tin một cách công khai hay bí mật.
Về việc khẳng định mặc khải qua các mệnh đề hay tuyên bố, Karl Rahner tra vấn mặc khải đã “bị đóng lại bởi cái chết của vị tông đồ cuối cùng” thật sự có nghĩa là gì? Ông nhận định rằng, dù xem xét trong tri thức thuần trí lẫn mặc khải siêu nhiên đều không thỏa đáng khi giải thích mệnh đề vừa nêu theo nghĩa khi vị tông đồ cuối cùng qua đời thì để lại một đúc kết đóng khung trong các mệnh đề phác thảo ngiêm túc như là những điều luật hợp pháp trong các bản văn rõ ràng lành mạch, ví tựa như là giáo lý. Chúng vốn tồn tại bất biến nhưng lại không ngừng được dẫn giải, giải thích, hay bình luận. Rahner định nghĩa mặc khải “không là việc thông tri cơ số những mệnh đề xác định, những tóm kết, hay thêm vào đó là những ước muốn bất ngờ và độc đoán hạn hẹp có thể hình dung được.”[5] Với ông, mặc khải là “cuộc hội thoại mang tính lịch sử giữa Thiên Chúa và loài người qua những gì diễn ra và qua việc thông tri vốn liên quan đến công trình của Thiên Chúa và biến cố không ngừng diễn ra.”[6] Kết quả của cuộc đối thoại này là một giới hạn xác định tương đối rõ ràng, giới hạn này trước hết là biến cố và do đó việc thông tri sẽ đạt tới kết quả và đỉnh cao vốn chưa bao giờ được vượt qua. Có thể hiểu, mặc khải là đỉnh cao giúp nâng tầm tri thức con người lên một đỉnh cao mới vốn không thể đạt đến bởi những cách thức thông thường. Mặt khác, Karl Rahner định nghĩa mặc khải là biến cố cứu chuộc (saving happening) mà chỉ nhờ đó và trong đó tồn tại việc thông tri những chân lý. Ông khẳng định lịch sử cứu độ đã không ngừng tiếp diễn đến khi đạt đến cùng đích tối hậu trong Chúa Giêsu Kitô. Người đã tự hiến trọn vẹn chính Người cho thế gian. Trước Chúa Kitô, lịch sử nhân loại chỉ tồn tại những giai đoạn hay thời đại dẫn đưa đến sự chết và sự trống rỗng qua những gì chóng qua, tạm bợ, hay lập đi lập lại hết thời này đến thời kia. Những hệ thống kinh tế, chính trị, tri thức qua các thành bang, quốc gia, các nền văn minh đã mang trong mình sự tiêu vong khi nó được sinh ra vì nó hình thành rồi sụp đổ, hiện tại qua đi trong tương lai. Cũng trong giai đoạn đó, công trình của Thiên Chúa qua sự tỏ lộ chính Người cho thế giới được mở ra. Lịch sử cứu độ ghi nhận trật tự lần lượt hết lần này đến lần khác công trình của Thiên Chúa được thiết lập và thay thế lẫn nhau nhau. Mặc dù thế, cuối cùng Thiên Chúa muốn nói gì cho con người ngoài những lời tức giận hay yêu thương, tất cả dường như chưa rõ ràng. Thế nhưng, thực tế đáng tin cậy nhất cuối cùng cũng được công bố, nó không có thể trở nên lỗi thời hay bị thay thế. Đó là sự hiện diện bền vững và không bị phá bỏ của Thiên Chúa trong thế giới qua sự cứu chuộc, tình yêu, và sự tha thứ. Chính Chúa Kitô đã thông tri cho thế gian sự sâu kín nhất của chính thực tế siêu nhiên và chính cuộc sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian đã giải quyết cách triệt để vấn đề lịch sử, sẽ không còn thời đại mới, thời kì mới, hay kế hoạch cứu độ mới. Nói một cách khác, mặc khải đã được đóng lại. Đây là một khẳng định mang tính tích cực chứ không phải tiêu cực vì tất cả được bao hàm và không gì bị loại bỏ trong tiến trình mở ra cho sự hiện diện ẩn tàng của sự sung mản trong Đức Kitô. Không có gì cần được tuyên bố, tất cả đã được làm sáng tỏ nơi Người Con của tình yêu. Chính trong Chúa Kitô, Thiên Chúa và thế gian trở nên một, mãi mãi không lẫn lộn, nhưng mãi mãi không bị chia cắt. [7] Tắt một lời, Rahner khẳng định Chúa Kitô là đỉnh cao và tận cùng của mặc khải. Cuộc hội thoại mang tính lịch sử giữa Thiên Chúa và con người được “đóng lại” theo nghĩa được kiện toàn nơi Người hơn là đóng khung trong các tín điều hay giáo lý vốn tồn tại nơi Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền. Điều này thể hiện cách thức mang tính phạm trù và đặc biệt của mặc khải được đặt đến đỉnh điểm nơi Chúa Giêsu Kitô.
Trong cách nhìn mặc khải như là tri thức, Karl Rahner gián tiếp đề cập khía cạnh tri thức của mặc khải hay tất cả các loại tri thức thuần tri cũng không thể khỏa lấp hết ước muốn của tâm hồn ông. Ông viết: “Lạy Chúa, ngay giờ này xin hãy hiện diện như sự an ũi của lòng con, giờ đây khi tất cả mọi tri thứ dù là tri thức mặc khải của Người trong ngôn ngữ loài người cũng lặng im chấp nhận thất bại trước ao ước của trái tim con.”[8] Quả thật, Rahner chỉ ra sự khác biệt giữa biết Chúa và biết về Chúa. Đối với ông, ngôn ngữ con người sẽ chỉ ngày một trở nên câm nín trước sự hiện diện của chính Thiên Chúa. Trong mối tương quan với Thiên Chúa như là chính Người thì không còn ngôn ngữ con người, không còn khái niệm cũng như không còn một hình ảnh nào có thể trở thành trung gian. Rahner ghi nhận tất cả những mệnh đề công bố rõ ràng trong bản in (cold print) rằng chính chúng ta không có dính dáng gì với mầu nhiệm Ba Ngôi ngoài trừ việc tri nhận một vài điều “về nó” thông qua mặc khải.[9] Ông xác định việc thông tri thuần khẩu (merely verbal communication) vốn không làm thay đổi mối tương quan thật sự giữa tam vị nhất thể với người tiếp nhận nhưng phương cách này không thể được chọn để giải thích mặc khải về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Một mầu nhiệm gợi ý và bao hàm cách cơ bản nhất của việc thông tri thuộc hữu thể luận chân chính cho con người. Chính Thiên Chúa sẽ trở thành ngôn từ của cuộc sống và tình yêu mang lại niềm hỉ hoan và lấp đầy mọi ngỏ ngách của tâm hồn. Karl Rahner đã thốt lên rằng: “Chính Người là tri thức của con, là ánh sáng và là cuộc sống, là kinh nghiệm và là tình yêu. Người là Thiên Chúa của tri thức duy nhất và vĩnh cửu, là tri thức mang lại niềm hoan hỉ không bao giờ cạn vơi”[10] Quả thật, tri thức đích thực thuộc về ý thức mang tính siêu hình sâu thẳm trong chính nó vốn bao hàm trong mối tương quan có thể ý thức được nhất với những gì được tri nhận. Hiểu mặc khải một cách hời hợt sẽ dễ dẫn đến việc biết về Thiên Chúa hơn là biết chính Thiên Chúa. Lời mời gọi trong việc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng tự thông tri cho con người, là tiến trình đi từ cái đầu đến con tim, là đòi hỏi một sự nâng cấp trí khôn để biết được chân lý siêu nhiên tuy không thể được biết nhưng biết được (khả tri).  
Gợi ý từ tác giả Avery Dulles, việc chuyển hướng nguồn gốc tư tưởng theo thời gian như việc kể chuyện qua việc nghiên cứu tiêu thức để phân loại các lý thuyết mặc khải là điều hữu ích để tiếp cận sâu sát hơn các tư tưởng thần học về mặc khải.[11] Theo cách phân loại của Dulles thì tồn tại năm mẫu thức cơ bản: mẫu thức giáo lý (mệnh đề), mẫu thức lịch sử, mẫu thức kinh nghiệm nội tâm, mẫu thức nghịch lý, và mẫu thức tâm thức mới. Sau khi tìm hiểu Karl Rahner với những tóm tắt còn hạn chế, người viết đồng ý với tác giả Avery Dulles khi đặt một vài tư tưởng của Karl Rahner trong mẫu thức nhận thức mới và kinh nghiệm nội tâm. Với nền tảng là con người vốn siêu việt trong chính nội tâm, mẫu thức tâm thức mới định nghĩa mặc khải là hoạt động siêu việt (transcendent) đi vào bên trong tinh thần con người giúp con người có nhận thức đầy đủ hơn.[12] Trong thuật ngữ mặc khải siêu nghiệm, Rahner đã cho thấy một mặt là tính siêu việt và phổ quát của mặc khải qua ân sủng, mặt khác là tính siêu việt của con người, xét như là những hữu thể siêu nghiệm. Tính siêu việt trong mỗi hữu thể là nền tảng cho việc không giới hạn mặc khải, xét như sự giao tiếp, đối thoại giữa Thiên Chúa – một nền tảng sống động, thường hằng và siêu việt – và con người – vốn cũng được ban tặng sự siêu việt bên trong. Từ đó, nhờ có mặc khải mà nhận thức của con người đạt đến một mức độ cao hơn. Xét trong phạm vi Kitô giáo, tín hữu có thể tri nhận được vô tín hữu như là Kitô hữu vô danh, những người có thể lãnh nhận mặc khải và ơn cứu độ qua ân sủng không bờ bến của Thiên Chúa. Một điểm khác để đưa Rahner vào mẫu thức này là sự kiện toàn cho mẫu thức giáo lý (mệnh đề). Đúng như ông đã trình bày, mặc khải không bị đóng khung và khô cứng theo nghĩa mặc khải đã bị đóng lại qua các mệnh đề mặc dù nền tảng của mẫu thức mệnh đề là lời được viết ra là đỉnh cao mới đạt tới đỉnh cao. Mặc khải đóng lại theo nghĩa mở ra cho đỉnh cao là Chúa Giêsu Kitô. Xét về khía cạnh tri thức, Karl Rahner không phủ nhận giá trị của những gì chúng ta biết về Thiên Chúa nhưng mời gọi nhìn nhận mặc khải theo cách nhìn nhận thức mới. Tri thức ở đây là chính Thiên Chúa qua sự hiện diện của người trong thế giới và trong nội tâm cá vị của mỗi người.
Trong một cách nhìn khác, dựa trên nền tảng Thiên Chúa là tinh thần chứ không phải hiện tượng của mẫu thức kinh nghiệm nội tâm, thuật nghữ mặc khải siêu nghiệm cũng đủ để nhận định Karl Rahner thuộc vào mẫu thức này. Bởi lẻ, mặc khải ban đầu xảy ra trong một kinh nghiệm thần bí của việc kết hợp với Thiên Chúa. Nói một cách đơn giản, Thiên Chúa là tinh thần thì cũng sẽ tiếp xúc với bản chất tinh thần của con người thông qua mặc khải. Theo đó, mặc khải không thể xảy ra nếu không có kinh nghiệm thần bí về ân sủng. Quả thật, ngôn từ bên ngoài của con người chỉ diễn tả niềm tin về một ý kiến nào đó mà thôi. Chúng ta không thể tin nếu chỉ tiếp nhận nội dung mặc khải từ một người khác mà không có chút kinh nghiệm gì về ân sủng. Chính ân sủng soi sáng đó được gọi là mặc khải.
Từ những tiếp cận còn hạn chế về bản văn và cũng như nền tảng tri thức nêu trên, bài viết ghi nhận một vài điểm về lý thuyết mặc khải của Karl Rahner cũng như cố gắng nhìn nhận tư tưởng đó trong các mẫu thức. Thật ra, Karl Rahner chưa trực tiếp bàn về mặc khải trong các tác phẩm của mình mà chỉ đề cập đến nội dung mặc khải như là nền tảng cho những suy tư thần học. Có thể tri nhận, Karl Rahner tập trung vào mặc khải siêu nghiệm như một phần của lý thuyết thần học siêu nghiệm của ông. Khi nói về người tín hữu vô danh trên nền tảng mặc khải đó, Karl Rahner thể hiện đặc tính mục vụ trong nền thần học của ông. Việc nhìn nhận mọi người chưa chính thức gia nhập vào Kitô giáo là các tín hữu vô danh cũng lãnh nhận được ân sủng qua mặc khải siêu nghiệm, người Kitô hữu sẽ không ngừng thực hiện sứ vụ rao truyên phúc âm vốn được đặt để khi nhận bí tích Rửa tội. Lời mọi gọi mở mình ra và sống yêu thương dễ dàng thực hiện hơn trong niềm hy vọng các Kitô hữu vô danh sẽ được gọi là Kitô hữu. Đó cũng là bước nâng tầm tri thức lên một tầm cao mới. Rahner cũng chỉ ra rằng Chúa Giêsu Kitô là đỉnh cao và là trọn vẹn mặc khải siêu nhiên. Từ đó, việc đặt Người làm vị trí trung tâm của đời sống Kitô hữu và đời sống giáo hội trở nên rõ ràng và cần thiết nhất.  Cùng bước trong tiến trình đó, một lời mời gọi khác là biết Chúa hơn là biết về Chúa cũng được được đề cập. Việc quá cổ hữu, cứng nhắc và khô khan trong các mệnh đề và bản văn cần được xem xét vì Thiên Chúa hiện diện với con người và chỉ có Người mới tri thức tối thượng làm thỏa mãn bản chất hiếu tri của con người.   

Thư Mục
1.      Avery Dulles, S.JModels of Revelation. (Image Books – New York1985).
2.      Karen Kilby. Karl Rahner Theology and Philosophy. (Routledge – London, 2006).
3.      Karl Rahner. Enconters with Silence. Translated by James M. Demske. (The Newman Press – Westminster, Maryland, 196)
4.      Karl Rahner. The Content of Faith. Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006). 592.
5.      Karl Rahner. The Trinity. Translated by Joseph Donceel. (Burns and Oates a Contunuum Imprint – New York, 2001).
6.      Joseph A, Komonchak, Ed. The New Dictionary of Theology, (Michael Glazier, inc., Delaware, 198).




[1] Joseph A, Komonchak, Ed. The New Dictionary of Theology, (Michael Glazier, inc., Delaware, 198). 884.
[2] Karen Kilby. Karl Rahner Theology and Philosophy. (Routledge – London, 2006). 32-35.
[3] Karl Rahner. The Content of Faith. Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006). 592.
[4] Ibid. 593.
[5] Ibid. 402.
[6] Ibid. 401.
[7] Ibid. 402.
[8] Karl Rahner. Enconters with Silence. Translated by James M. Demske. (The Newman Press – Westminster, Maryland, 196). 33.
[9] Karl Rahner. The Trinity. Translated by Joseph Donceel. (Burns and Oates a Contunuum Imprint – New York, 2001). 14.
[10] Karl Rahner. Enconters with Silence. Translated by James M. Demske. (The Newman Press – Westminster, Maryland, 196). 33.
[11] Avery Dulles, S.JModels of Revelation. (Image Books – New York1985). 25.
[12] Ibid. 98.