Thursday, July 6, 2017

Ba-ti-mê, Người Môn Đệ Đích Thực - Mc 10:46-52 -



1.      Bản văn

46  Họ đến Giê-ri-khô. Khi Người ra khỏi Giê-ri-khô cùng với các môn đệ của Người và một đám đông khá lớn thì có con ông Ti-mê là Ba-ti-mê, một người mù ăn xin, đang ngồi bên vệ đường. 47 Khi nghe biết đó là Đức Giêsu Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên và nói: “Lạy Ông Giêsu, Con Đa-vít, xin thương xót tôi. 48 ” Nhiều người quát nạt anh ta để anh ta im lặng, nhưng anh ta càng kêu lớn hơn: “Lạy Con Đa-vít, xin thương xót tôi.” 49 Đứng lại, Đức Giêsu nói: “Hãy gọi anh ta.” 50 Người ta gọi anh mù và nói với anh ta: “Cứ yên tâm, hãy đứng dậy, Người gọi anh.” Vất áo choàng của anh lại, nhảy chổm dậy, anh ta đến với Đức Giêsu. 51 Đức Giêsu lên tiếng nói với anh ta: “Anh muốn Tôi làm gì cho anh?” Anh mù nói với Người: “Thưa Ráp-bi, xin cho tôi nhìn thấy.” 52 Người nói với anh ta: “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh.” Lập tức, anh ta nhìn thấy và theo Người trên con đường ấy.”[1]

2.      Bối cảnh và cấu trúc

Lược qua các phiên bản Kinh Thánh Anh ngữ[2] và Việt ngữ[3], bản văn Mc 10: 46-52 nằm giữa hai bản văn Mc 10:35-45 –  Mc 11:1-11 (Anh ngữ); Mc 10:41-45 – Mc 11:1-11 (Việt Ngữ). Điều này cho thấy các dịch giả Việt Nam dường như hướng người đọc xem xét bản văn chi tiết hơn về chủ đề lãnh đạo theo tinh thần của Chúa Giêsu Kitô mà không nhất thiết phải gắn chặt với việc “mù tinh thần” của Gia-cô-bê và Gio-an. Theo quan điểm người viết, bản văn nằm trong trật tự phân chia theo các phiên bản Anh ngữ vì người đọc sẽ dễ ghi nhận được tinh thần lãnh đạo của Con Thiên Chúa khi gắn liền với các môn đệ, đặc biệt là các tông đồ. Quả thế, bản văn Mc 10: 46-52 như là bước ngoặc kết thúc quá trình huấn luyện trên đường của Chúa Giêsu để tiếp nối sau đó là việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem (Mc 11:1-11).[4]  Bản văn thuộc phần những cuộc hành trình của Đức Giêsu ở ngoài miền Ga-li-lê. Đoạn trước (Mc 10:35-45)  trình thuật về giáo huấn của Chúa Giêsu cho các tông đồ về “chén thầy uống” và phong cách lãnh đạo thật sự theo nguyên lý đảo ngược. Đoạn sau (Mc 11:1-11 ) trình thuật việc Chúa Giêsu vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a.
Cấu trúc tổng quan của đoạn văn có thể được chia làm ba phần: i) hoàn cảnh nơi chốn và các nhân vật (10:46); ii) phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10:14-50); iii) đỉnh cao bài tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10:51-52).[5] Chi tiết hơn, bản văn giới thiệu nơi chốn – Giê-ri-khô, bối cảnh – Chúa đang rời khỏi cùng muôn đệ và đám đông theo người, nhân vật – Chúa Giêsu, Ba-ti-mê (con ông Ti-mê) và đám đông (c. 46); miêu tả sự kêu cầu và sự kiên trì của người mù Ba-ti-mê (c. 47-48); thể hiện sự hồi đáp của Chúa Giêsu (c. 49); trình bày thái độ dứt khoát của người mù (c. 50); thuật lại cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu và người mù (c. 51); và nhấn mạnh việc Đức Giêsu chữa người mù và anh đi theo Người (c. 52).

3.      Phân tích

Bề mặt câu chuyện là một phép lạ nhưng lại ẩn chứa một cuộc đối thoại đức tin.[6] Cuộc đối thoại này hướng dẫn những ai theo Chúa Giêsu trong hành trình đức tin trở thành một người môn đệ đích thức theo lời mời gọi của Chúa Giêsu:
“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”(Mk 8:34).
Một câu hỏi như là một lời mời gọi: “Ai muốn theo tôi?” Trong trường hợp của Ba-ti-mê, một người mù được xác định rõ ràng danh tính và nguồn gốc, rất là đặc biệt vì Tin Mừng Mác-cô chỉ nêu tên một nhân vật khác nữa là Gia-ia cha của cô bé được Chúa cho sống lại (Mc 5:22)[7]. Hơn nữa, khi đối chiếu trong Nhất lãm, Mát-thêu trình thuật hai người mù,  Lu-ca không nêu rõ danh tính[8] càng thể hiện sự đặc biệt của Mác-cô dành cho Ba-ti-mê. Thế nhưng, trong trình thuật, người mù bên vệ đường được Chúa gọi trong hoàn cảnh rất khó khăn. Chúa Giêsu cùng môn đệ và đám đông đang rời khỏi Giê-ri-khô, nhiều người quạt nạt anh nhưng anh không những đã  kêu mà còn “kêu lớn hơn”. Ba-ti-mê đã thể hiện “một ước muốn thiết tha và chính ước vọng tha thiết đó đã khiến cho mọi sự được thành.”[9] Chúa đã gọi anh nhưng lại thông qua đám đông, có lẻ chính những người quát nạt anh nay trở thành người gọi và khuyến khích anh đến Chúa: “Cứ yên tâm, hãy đứng dậy, Người gọi anh.” Quả thế, tiếng Chúa mời gọi dành cho những ai theo Người đôi khi không thật rõ ràng, nhiều khi còn bị ngăn cản nhưng lời cầu nguyện thật tâm vốn nảy lên từ chính nhu cầu thiết yếu và lòng tin vững mạnh vào khả năng Chúa Giêsu, người luôn gặp gỡ những người thiếu thốn.[10] Do đó, người muôn đệ không những phải luôn tỉnh thức mà còn phải kiên trì và cố gắng nhiều hơn nữa khi gặp thử thách, gian nan.
Thái độ dứt khoát của Ba-ti-mê thể hiện rõ ràng nhất qua việc anh từ bỏ chiếc áo choàng, bật dậy như cái lò xò bị nén lâu ngày để đến với Chúa Giêsu. Danh từ ἱμάτιον (Mar 10:50 BGT)[11] được hiểu là y phục theo nghĩa chung (Mat 24:18 BGT; Mar 2:21 BGT; Luk 8:27 BGT) hay áo choàng vốn rất hữu dụng cho người nghèo (Exo 22:26 BGT; Deu 24:17 BGT). Luật xưa đã dạy là phải trả lại áo choàng cho người nghèo vì họ dùng nó làm mền đắp, để không bị chết cống trong cái lạnh về đêm. Trong trường hợp người mù, anh ta có thể trải tấm áo ra trước mặt để nhận bố thí.[12] Dù xét theo nghĩa nào, tấm áo choàng như là một phần sinh mệnh của anh, mất nó gần như mất đi vật dụng sinh tồn. Thế nhưng, anh đã “vất áo choàng của anh lại” một cách dứt khoát, không toan tính gì thêm. Động từ ἀποβαλὼν (Mar 10:50 BGT) có nghĩa chính là “vất đi, quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26:5) hoặc “đánh mất” (Is 1:30, Dt 10:35)[13] càng làm rõ hơn hành động từ bỏ đích thực của anh mù. Hành động này một lần nữa minh chứng cho sự tin tưởng vào “Ông Giêsu, Con Đa-vít” và không muốn bỏ lỡ cơ may vì có thể nó chỉ “xảy đến một lần mà thôi[14]. Anh mù đã “nhảy chổm dậy” sau khi vất bỏ mọi vướng bận có thể ngăn cản anh đến với Chúa. Động từ ἀναπηδάω (Mar 10:50 BGT) được chuyển ngữ khác nhau theo các tác giả và các phiên bản: “đứng phắt dậy” (Nhóm GKPV, Lê Phú Hải[15]); “nhảy chồm dậy” (Nguyễn Thế Thuấn); “nhảy chổm dậy” (Lê Minh Thông);  “sprang up” (Today’s English Version); “jumped up” (NRSV), riêng cá nhân người viết chọn từ “sprang up” theo ngôn ngữ hiện đại là “nảy lên”. Quả thế, người mù vệ đường có “một tư thế cố định được coi như là vĩnh viễn”[16] tựa như một chiếc lò xò (spring) đang bị đèn nén lâu ngày bây giờ “nảy lên” như thoát khỏi sự kềm kẹp. Hơn nữa, hành động nảy lên là “một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong Tân Ước, và ngay cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên (7 lần)” và nó diễn tả một hành động “cương quyết và bất ngờ” [17]. Tựu chung, chuỗi hành động “vất áo” – “nảy lên” – “đến với Đức Giêsu” mang thái độ từ bỏ chính mình cách dứt khoát, cương quyết và đầy bất ngờ của anh mù Ba-ti-mê. Hành động đáp lại tiếng Chúa gọi qua người khác của anh là độc nhất và rất mạnh mẽ, quyết liệt.
Bản văn không miêu tả chi tiết thập giá của Ba-ti-mê nhưng theo con mắt thế gian chúng ta ghi nhận “thập giá” của anh là cả cuộc đời mù lòa trước đó. Anh phải ngồi bên vệ đường, phải ăn xin, phải chịu người ta quát mắng và gần như mất cơ may được Chúa gọi. Thế nhưng, con mắt đức tin mở ra một tầm nhìn mới cho người theo Chúa. Chúa Giêsu đã hỏi cùng một câu hỏi:  (Các) “anh muốn Tôi làm gì cho anh?”­ dành cho hai Tông Đồ cũng như anh Ba-ti-mê. Mác-cô trình thuật hai câu trả lời khác nhau, trong khi hai tông đồ xin “vị trí” quyền lực (Mc 10:37) thể hiện “sự mù lòa” tinh thần của họ[18] thì Ba-ti-mê xin được sáng mắt. Một cách bất ngờ, Ba-ti-mê được sáng không chỉ là con mắt thể xác mà cả con mắt thiêng liêng vì “lòng tin của anh đã cứu anh.”  Ba-ti-mê được cứu không phải nhờ vào việc Chúa Giêsu đã làm mà chính lòng tin của anh.[19] Việc Ba-ti-mê lập tức được sáng mắt như dấu chỉ chữa lành cho anh và cho con mắt thiêng liêng của các môn đệ sau khi được Chúa Giêsu giải thích về chén đắng mà người sắp uống (Mc 10:38-39). Chén đắng là con đường thập giá tình yêu mà Chúa Giêsu đã đi, cũng là “thập giá mình” của những người môn đệ.  Động từ “đi theo” –  ἠκολούθει (Mar 10:52 BGT) có gốc từ là ἀκολουθέω, có nghĩa là đi theo (follow - Mt 21:9); đồng hành (accompany - J 6:2); đi theo với tư cách là người muôn đệ (follow as disciple - Mk 1:18; 2:14)[20] cùng với cụm trạng từ δεῦτε ὀπίσω μου (Mar 1:17 BGT) diễn tả việc theo Thầy về mặt thể lý lẫn tinh thần[21] cũng như tiêu chuẩn vị trí của môn đệ trong tương quan với thầy. Việc sáng mắt của Ba-ti-mê thể hiện sự sáng về mặt thể lý lẫn tinh thần, ông trở thành mẫu mực về đức tin và người môn đệ thật sự.[22] Trên hết, ông đã chấp nhận thập giá và bước theo Chúa Giêsu trên đường Người đi. Đó là “con đường lên Giê-ru-sa-lem và lên đồi Gôn-gô-tha”[23]

4.      Kết luận

Hai phép lạ chữa lành người mù (tại Bết-xai-đa Mc 8:22-26 và tại Giê-ri-khô) như là hai dấu chỉ đóng khung lại quá trình huấn luyện trên đường giúp các môn đệ thoát khỏi “sự mù lòa tinh thần” của Chúa Giêsu.[24] Mác-cô có lẻ muốn trình thuật một Chúa Giêsu lo lắng và buồn phiền nhiều vì khi hành trình huấn luyện gần kết thúc, chính hai tông đồ người chọn vẫn còn thể hiện sự mù lòa của họ. Nhưng cũng vì thế, Mác-cô khắc họa một trường hợp đặt biệt mang tính gương mẫu cho những ai theo Chúa và trở nên môn đệ đích thực của Người. Một người môn đệ được chọn gọi trong hoàn cảnh khó khăn nhưng luôn kiên trì tìm kiếm lời mời gọi, một người môn đệ sẳn sàng từ bỏ mọi vướng bận một cách dứt khoát, quyết liệt khi nghe tiếng mời gọi dù là gián tiếp, một người môn đệ sẳn sàng chấp nhận vác thập giá mình trong con mắt đức tin mà đi theo Chúa.

Thư mục

1.      Brendan Byrne. A Costly Freedom – A Theological Reading of Mark’s Gospel. (Liturgical Press – Collegeville, Minnesota). 169-171
2.      Donahue, John R., and Daniel J. Harrington, The Gospel of Mark (Sacra Pagina; MN:Collegeville, 2002). 316-320.
3.      CGKPV. Kinh Thánh. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2009)
4.      George Martin. The Gospel According to Mark – Meaning and Message. (Loyola Press: USA, 2005).
5.      Giuse Lê Minh Thông, O.P. Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt. (NXB Phương Đông: Tp. HCM, 2011). 152-159.
6.      Giuse Ngô Ngọc Khanh, OFM. Tin Mừng Theo Thánh Máccô – Tổng Quát Và Nội Dung. (Lưu Hành Nội Bộ: Học Viện Phanxicô, 2014.
7.      John P. Keenan. The Gospel of Mark. (Orbis Books: NY). 258.
8.      Hoàng Đắc Ánh. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô Theo Thánh Mác-cô. (Tu viện Mai Khôi: 2011)
9.      Lê Phú Hải, omi. Dẫn nhập Tin Mừng Máccô. (NXB Tôn Giáo: Tp. HCM, 2015)
10.  Nhóm Phiên Dịch CGKPV. Đối Chiếu Bốn Sách Tin Mừng. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2004)
11.  Nguyễn Thế Thuấn. Kinh Thánh. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2007).
12.  NRSV. Holy Bible. (Theological Publication: India, 2007).
13.  Today’s English Version. Good News Bible. (St. Paula: Kolkata, 2008)
14.  Willam Barclay. Tin Mừng theo Thánh Máccô. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2008). 243-246
15.  Vũ Phan Long. Các Bài Tin Mừng Máccô Dùng Trong Phụng Vụ. (NXB Văn Hóa Thông Tin: Tp. HCM, 2008). 232-241.





[1] Giuse Lê Minh Thông. Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt. (NXB Phương Đông: TpHCM, 2011). 150-159.
[2] NRSV. Holy Bible. (Theological Publication: India, 2007); Today’s English Version. Good News Bible. (St. Paula: Kolkata, 2008)
[3] CGKPV. Kinh Thánh. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2009); Nguyễn Thế Thuấn. Kinh Thánh. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2007). Giuse Lê Minh Thông. Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt. (NXB Phương Đông: TpHCM, 2011).
[4] Brendan Byrne. A Costly Freedom – A Theological Reading of Mark’s Gospel. (Liturgical Press – Collegeville, Minnesota). 169.
[5] Vũ Phan Long. Các Bài Tin Mừng Máccô Dùng Trong Phụng Vụ. (NXB Văn Hóa Thông Tin: Tp. HCM, 2008). 233.
[6] Donahue, John R., and Daniel J. Harrington, The Gospel of Mark (Sacra Pagina; MN:Collegeville, 2002). 319
[7] Ibid. 317.
[8] Nhóm Phiên Dịch CGKPV. Đối Chiếu Bốn Sách Tin Mừng. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2004). 224.
[9] Willam Barclay. Tin Mừng theo Thánh Máccô. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2008). 245.
[10] George Martin. The Gospel According to Mark – Meaning and Message. (Loyola Press: USA, 2005). 282.
[11] Trích dẫn cùng mẫu từ BibleWorks 9.
[12] Vũ Phan Long. Op. cit. 236.
[13] Obid. 236.
[14] Willam Barclay. Op. cit. 245. 
[15] Lê Phú Hải, omi. Dẫn nhập Tin Mừng Máccô. (NXB Tôn Giáo: Tp. HCM, 2015). 153.
[16] Vũ Phan Long. Op. cit. 234.
[17] Obid. 236-237.
[18] Brendan Byrne. Op. cit. 171.
[19] John P. Keenan. The Gospel of Mark. (Orbis Books: NY). 258.
[20] BibleWorks 9.
[21] Đi theo bằng thể lý: người môn đệ có cùng hành trình với thầy; đi theo bằng tinh thần: người môn đệ học cho biết và làm theo gương mẫu của thầy. Giuse Ngô Ngọc Khanh, OFM. Tin Mừng Theo Thánh Máccô – Tổng Quát Và Nội Dung. (Lưu Hành Nội Bộ: Học Viện Phanxicô, 2014). 96.
[22] Brendan Byrne. Op. cit. 171.
[23] Hoàng Đắc Ánh. Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô Theo Thánh Mác-cô. (Tu viện Mai Khôi: 2011). 168.
[24] Brendan Byrne. Op. cit. 170.

No comments: