Thursday, July 20, 2017

Vài điểm nhìn nhận về chủ nghĩa vô thần theo nhãn quan của Karl Marx (1818-1883)

Marx sinh tại thành phố Trier, Đức. Cha mẹ ông là người Do Thái cải sang giáo phái Luther khi ông sáu tuổi; nhưng chính bản thân ông lại chống tôn giáo quyết liệt khi còn ở tuổi thiếu niên. Thậm chí lúc ấy ông đã xác tín rằng: “Phê bình tôn giáo là nền tảng của mọi thứ phê bình”[1] Liệu chúng ta có thể nhận định Marx là một người phê bình tôn giáo đích thực hay không? Sức mạnh của Marxism có thật sự mạnh mẽ như một số người đã tin theo và ca ngợi. Bài viết sẽ lần lượt đi qua những điểm chính (1) các tư tưởng triết học tác động lên Marx, (2) nền tảng phê bình tôn giáo của Marx, (3) đặc điểm phê bình tôn giáo của Marx và (4) một vài nhận định để đưa ra những kết luận.

1.      Các tư tưởng triết học tác động lên Marx

Marx chịu ảnh hưởng của hai nhà tư tưởng chính là Hegel và Feuerbach. Trước hết, một trong những điểm Hegel gây ấn tượng trên Marx là hệ quả “đồng hóa Thượng Đế với con người”[2] của nhóm Hegel trẻ. Vì thế, “nhóm Hegel trẻ coi triết lý tách biệt ra khỏi tôn giáo và nhìn tôn giáo theo quan điểm chính trị - tôn giáo như điểm tựa của trật tự bảo thủ (bênh vực quyền lợi giai cấp)”[3]. Mặt khác, Marx ảnh hưởng bởi tư tưởng của Hegel là “sự nhìn nhận rằng lịch sử là một tiến trình phát triển và thay đổi từ hình thức ít hoàn hảo sang những hình thức hoàn hảo hơn trong toàn thể thực tại …”[4] Đây cũng là cơ sở cho lịch sử tính trong nền tảng triết học của Marx. Tiếp đến, dưới ảnh hưởng của Feuerbach, Marx “bác bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hegel, thay thế nó bằng quan điểm rằng thực tại cơ bản là vật chất.[5] Ông nói về tình trạng con người là vong thân, phóng thể. Vì “trong tâm thức tôn giáo, con người bị phân đôi, đánh mất chính mình.”[6] Con người không thừa nhận mình mà “phóng chiếu mình vào Thiên Chúa, như là sự khách thể hóa. Cũng vì thế mà “con người tôn giáo là con người vong thân, bị lầm lạc và cần được điều chỉnh”[7] Vì thế, Thiên Chúa chẳng qua là con người mà thôi, nên nếu có thờ thì thờ nhân loại mới đúng. Nói tóm lại, Marx đã rút ra tính lịch sử của Hegel qua phép biện chứng và nhấn mạnh tính vật chất của Feuerbach để tạo nên quan điểm duy vật lịch sử hay duy vật biện chứng.

2.      Nền tảng phê bình tôn giáo của Marx

Với lịch sử tính, Marx đã đưa các thời kỳ lịch sử với 5 giai đoạn chính[8]. Ông thừa nhận phép biện chứng của Hegel với sự phát triển qua chính đề, phản đề và hợp đề. Từ hợp đề đó lại tạo ra một chính đề mới và quá trình cứ tiếp tục như thế. Qua kết hợp với ảnh hưởng của Feuerbach, Marx đã cung cấp cơ sở vật chất cho phép biện chứng đã nêu. Ông đã đưa ra nhận định rằng “ý tưởng không là gì khác hơn là thế giới vật chất được phản chiếu bởi trí khôn con người, và được chuyển thành các hình thức tư tưởng”[9] Đó chính là duy vật biện chứng theo cách nhìn nhấn mạnh đến phương pháp luận qua các tiến trình xã hội, hay đúng hơn nên gọi là duy vật lịch sử mới phản ánh đúng bản chất của nền tảng triết học này.

3.      Đặc điểm phê bình tôn giáo của Marx

a.       Tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng

Marx xác định, “con người làm ra tôn giáo chứ tôn giáo không làm ra con người”. Đồng thời, ông đưa ra một loạt những tuyên bố “tôn giáo là sự thể hiện bản chất của con người trong tưởng tượng”; “tôn giáo là tiếng than vãn của thọ tạo bị đàn áp, là tâm hồn của một thế giới vô tâm, cũng như tôn giáo là tinh thần của những tình huống vắng bóng tinh thần. Lập luận của Marx đưa đến kết luận phê bình tôn giáo cũng là “phê bình cái miền đất bi thảm mà tôn giáo là hào quang thiêng thánh.”[10] Như thế, ông đã khắc họa tôn giáo như tình trạng vong thân theo cách hiểu của Feuerbach và cần phải phê bình “tôn giáo, nhất là Kitô Giáo, là một hiện tượng lỗi thời, các Giáo hội thì tỏ vẻ thù nghịch với tiến bộ và tự do.”[11] Như thế, Marx như là một chuyên viên cai nghiện khi xác định tôn giáo như là thuốc phiện đã làm người tín hữu ra yếu nhược. Ông thuyết phục mọi người trở lại với thế giới vật chất mà con người là trung tâm vì “tôn giáo chỉ là mặt trời ảo vận động chung quanh con người bao lâu con người không vận động chung quanh chính mình.” Nếu tôn giáo chỉ là chất kích thích đem lại những khoái cảm giả tạo, chóng qua mà có khi còn nguy hại nữa thì nó có gì đáng quý đâu?! Với duy vật lịch sử, Marx đưa đến kết luận, “phê bình thượng giới thành phê bình cõi trần, phê bình tôn giáo thành phê bình pháp chế, phê bình thần học thành phê bình chính trị”[12]
b.       Phê bình tôn giáo nhân danh xã hội và sự phát triển xã hội
Marx đã phê bình “Feuerbach không thấy rằng “tâm hồn tôn giáo” tự nó đã là một sản phẩm xã hội”, và cá nhân trong thực tế là thành viên của một mô hình xã hội nhất định. Từ đó, ông xác định “con người là một tổng thể các quan hệ xã hội”[13] Ông đã nhấn mạnh “chúng ta đi từ dưới đất lên trời” hoàn toàn ngược lại với triết lý Đức đi từ trời xuống.[14] Với cách nhìn duy vật, Marx xác định “không phải ý thức chi phối cuộc sống mà là cuộc sống chi phối ý thức.”[15] Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử, “tôn giáo chỉ diễn tả trạng huống căn bản, trong đó con người là nạn nhân một nền kinh tế vô nhân đạo và bị vong thân về phương diện xã hội”[16]
 c.       Xóa bỏ tình trạng vong thân
Marx khẳng định “con người là hữu thể tối thượng cho con người.”[17] Điều này đòi hỏi phải xóa bỏ tình trạng tha hóa[18], hay vật hóa của con người[19]. Ông đưa ra nhận định “vong thân về mặt tôn giáo trong bản chất chỉ là diễn ra trong lãnh vực của ý thức bên trong con người, chứ vong thân về mặt kinh tế là cảnh vong thân của đời thật”[20] Vì thế, vong thân trong lao động, tức là vong thân toàn diện, mất tính người, không còn hòa hợp với thiên nhiên và với người đồng loại nữa. Điều này xảy ra một phần là vì phải đi làm công, đi làm mướn. Để giải quyết vấn đề này, Marx đã đưa ra một giải pháp thiết thực là “chủ nghĩa cộng sản” sẽ xóa bỏ tư hữu xét như tình trạng vong thân của con người để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, chủ nghĩa cộng sản sẽ xóa bỏ giai cấp, tiêu diệt tư bản – một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đối kháng và xung đột.[21] Măt khác, Marx phân tích chủ nghĩa vô thần – một sự phủ định Thiên Chúa – đã xác lập sự hiện hữu của con người. Thế nhưng, chủ nghĩa xã hội thì không cần qua bước trung gian này. Trong chủ nghĩa xã hội, con người sẽ “ý thức về chính mình theo nghĩa tích cực” là hiện thực là đời sống thực.[22] Do đó, chủ nghĩa xã hội sẽ là xã hội phát triển nhất và xóa bỏ đi những vấn đề xã hội đang gặp phải trong đó có vấn đề tôn giáo.

4.      Một vài nhận định

a.       Ưu điểm

Tôn giáo sẽ xem lại bản chất đích thực của mình khi bắt gặp nhận định rằng “phê bình tôn giáo của Marx như một phê bình chỉ chích ý thức hệ của giới Kitô Giáo tư sản ở thế kỷ 19 vốn dính dấp với công cuộc Phục hưng chính trị (politische Retauration)”[23]
Cũng như phê bình của Feuerbach, Marx nhấn mạnh đến con người qua tình trạng vong thân. Điều này giúp mỗi người tín hữu, đặc biệt là Kitô hữu, đặt lại vấn đề về đức Tin về một Thiên Chúa đúng nghĩa là như thế nào? Có phải Ngài chỉ là phóng chiếu hay là một Đấng giải quyết các vấn đề?
b.       Khuyết điểm
Marx đã xác định “đối với nước Đức thì việc phê phán tôn giáo, về thực chất, đã kết thúc và phê phán tôn giáo là tiền đề của mọi phê phán khác”[24] Vì thế, Marx từ chối trực tiếp phê bình tôn giáo nhưng gián tiếp bài xích tôn giáo khi xây dựng học thuyết xã hội chủ nghĩa. Có thể nhận định là “vô tri bất mộ” vì ông đã đánh giá cao việc phê bình nhưng không để tâm nghiên cứu sâu về bản chất tôn giáo thực sự.
Marx gặp vấn đề khi cho rằng “ý thức là phản ánh của thực tại?” Ông “thường nói là học thuyết cộng sản của ông là do ba trào lưu kết lại: một là triết học của người Đức (Hegel và Feuerbach), hai là xã hội chủ nghĩa của người Pháp, ba là kinh tế học của người Anh. Vì thế ông đinh ninh là chế độ cộng sản rồi đây sẽ được thực hiện trong ba nước đó trước tiên.” Điều này cho thấy mâu thuẩn là ý thức đã đi trước thực tại trong khi họ chủ trương con người chỉ được quy định ở giây phút hiện tại mà thôi.
Mặt khác, khi xem “con người là hữu thể tối thượng cho con người” và muốn xóa bỏ tình trạng “vong thân” trên tất cả các lĩnh vực. Marx đã sai lầm khi lẫn lộn giữa giải thích khoa học và giải thích hữu thể luận. Ông đã lẫn lộn giữa sự độc lập kinh tế xã hội với sự độc lập hữu thể, là sự độc lập thuộc hai bình diện khác nhau.
Thay lời kết
 Từ những nội dung đã nêu, bài viết đồng ý với cách nhìn là Marx đã có quan điểm phê bình khác với một số người đương thời là phê bình không còn có nghĩa là phê phán một cách trung lập, không thiên vị, nhưng có nghĩa là tấn công. Ông đã không những tấn công bằng bài vở, bằng miệng lưỡi (chửi mắng), nhưng thực tế đã chứng minh là còn phải phê bình bằng khí giới qua bạo lực cách mạng. Vì thế phê bình ai tức là tấn công người ấy, phê bình tôn giáo tức là tấn công tôn giáo vậy.”[25] Xét trên phương diện này, Marx đã không là một người phê bình tôn giáo thực sự. Cũng thế, sức mạnh của chủ nghĩa Marxism đã không đem lại lợi ích thật sự mà chỉ phục vụ cho một lớp người thống trị mượn danh “vô sản”.



THƯ MỤC
Phê Bình Tôn Giáo Qua Các Tác Giả, Karl-Heinz Weger
Tổng Quát Về Vô Thần, Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Lưu hành nội bộ, Thủ Đức 2013.
Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, Samuel Enoch Stumpf, Đỗ Văn Thuấn – Lưu Văn Hy biên dịch, NXB Lao Động: Hà Nội – 2004
Karl Marx Phê Bình Tôn Giáo, Trần Văn Toàn, http://lamhong.org/2011/09/28/karl-marx-phe-binh-ton-giao/, truy cập 10/11/2103.
Câu Chuyện Triết Học, Bryan Magee, Huỳnh Phan Anh – Mai Sơn dịch, NXB Thống Kê.
Khóa học về Lịch sử Triết học thời Cận Đại, Vũ Kim Chính, tháng 10-2013 tại Học viện Thánh Giuse, Dòng Tên.
Con Người và Vấn Đề Thượng Đế, Lm. Louis Leahy, S.J, , Phân Khoa Thần Học, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà Lạt, Viêt Nam 1974. Bản điện tử, Phê Bình Thuyết Vô Thần Của Karl Marx, Lam Hồng thực hiện, phần I: http://lamhong.org/2011/10/09/phe-binh-thuy%E1%BA%BFt-vo-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-karl-marx/ ; Phần II: http://lamhong.org/2011/10/11/phe-binh-thuy%E1%BA%BFt-vo-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-karl-marx-ti%E1%BA%BFp/





[1] Bryan Magee, Câu Chuyện Triết Học, Huỳnh Phan Anh – Mai Sơn dịch, NXB Thống Kê, 208.
[2] Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học Và Các Luận Đề, Đỗ Văn Thuấn – Lưu Văn Hy biên dịch, (NXB Lao Động: Hà Nội – 2004), 321.
[3] Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R, Tổng Quát Về Vô Thần (Lưu hành nội bộ, Thủ Đức 2013), 39.
[4] Samuel Enoch Stumpf, op. cit., 321.
[5] Ibid., 322.
[6] Gioan Nguyễn Ngọc Hải, C.Ss.R, op. cit., 35.
[7] Ibid., 40.
[8] “(1) công xã nguyên thủy, (2) nô lệ, (3) phong kiến, (4) tư bản, và, ông tiên báo thời ký tiếp theo, (5) xã hội chủ nghĩa và cộng sản” (Samuel Enoch Stumpf. Op. cit., 324)
[9] Ibid.
[10] Karl-Heinz Weger, op. cit., 125-126.
[11] Karl-Heinz Weger, op. cit., 123.
[12] Ibid., 127.
[13] Ibid., 132.
[14] Ibid., 133.
[15] Ibid., 134.
[16] Lm. Louis Leahy, S.J, Con Người và Vấn Đề Thượng Đế, Phân Khoa Thần Học, Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X, Đà Lạt, Viêt Nam 1974. Bản điện tử, Phê Bình Thuyết Vô Thần Của Karl Marx, Lam Hồng thực hiện, http://lamhong.org/2011/10/09/phe-binh-thuy%E1%BA%BFt-vo-th%E1%BA%A7n-c%E1%BB%A7a-karl-marx/
[17] Karl-Heinz Weger, Op. cit., 127.
[18]  Theo cách hiểu của Hegel thì tha hóa là vấn đề chủ nô. Có chủ phải có nô, có nô thì mới có chủ. Xã hội chủ nô có sự áp bức, có bất công, đó là sự tha hóa. Marx đã đề cập tới vấn đề này trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản kêu gọi mọi người đoàn kết lại với nhau để được giải phóng. Khi tất cả đều vô sản thì không còn chủ nô nữa. Tra cứu thêm trong cuốn “Ý thức và giai cấp” của György Lukács. (Vũ Kim Chính, Khóa học về Lịch sử Triết học thời Cận Đại, tháng 10-2013 tại Học viện Thánh Giuse, Dòng Tên.)
[19] Mô tả đặc biệt trong “tiếng kêu của một người Pháp thốt lên nhân dự án về thuế nuôi chó: “Tội nghiệp quá chó ơi! Người ta định đối xử với mày như với con người vậy!” Ibid, 127.
[20] Ibid., 129.
[21] Đối kháng giữa người và thiên nhiên, giữa con người với nhau, … xung đột giữa hiện hữu (Existenz) và yếu tính, giữa việc đối tượng hóa và việc xác định bản thân, giữa tự do và tất yếu, giữa cá nhân và loài. (Ibid., 128)
[22] Ibid., 130.
[23] Ibid., 122.
[24] Ibid., 125.
[25] Trần Văn Toàn, Karl Marx Phê Bình Tôn Giáo, http://lamhong.org/2011/09/28/karl-marx-phe-binh-ton-giao/

No comments: