Kinh Thánh Cựu Ước khắc họa Ê-dê-ki-en con ông Bu-di là một người được giáo dục chu đáo theo truyền thống dòng dõi Tư tế, chuyên phục vụ Đền Thờ (Ed 1, 3). Cuộc đời của ông đánh dấu bởi biến cố lưu đày trong cuộc lưu đày sang Babylon lần thứ nhất năm 598 trước Công Nguyên, cũng là khoảng mười hai năm trước khi thành Jerusalem chính thức bị phá hủy và sụp đổ. Thế nhưng, cuộc đời ông thật sự sang trang để phục vụ Chúa khi ông nhận được ơn gọi ngôn sứ năm năm sau đó (593) (Ed 1, 2) [1]. Ê-dê-ki-en được biết đến là một ngôn sứ văn gia với văn phong đặc biệt chứa đựng rất nhiều thị kiến, “lời tranh biện của ngôn sứ”, những hình ảnh dụ ngôn và ẩn dụ, cùng một vài hành động biểu tượng và ghi dấu thể văn thuộc dòng văn chương tư tế. Ông là ngôn sứ lãnh nhận ơn gọi của mình trong một thị kiến đặc biệt khi được hiện diện trong vinh quang của Thiên Chúa nhưng điểm đặt biệt của ông là phải ăn cuốn sách được bày ra trước mắt ông và ra đi rao truyền cho nhà Ít-ra-en. Cuộc đời ông được đặt để nhiệm vụ với hình ảnh mang nhiều biểu tượng là ngôn sứ, người canh thức. Nhiệm vụ đặc biệt này của ông được thể hiện trong sách Ê-dê-ki-en chương 3 từ câu 16 đến câu 21 và được “sao chép” lại ở chương 33 từ câu 1 đến câu 9.
Để có cách nhìn theo hướng tổng quát hơn về cuộc đời ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta xem xét đôi nét về hoạt động ngôn sứ của ông. Ê-dê-ki-en xuất hiện với hoạt động chủ yếu là tiên báo sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem sẽ chắc chắn xảy ra để đối lại với các ngôn sứ giả trong nước cũng như trên đất lưu đày vốn tuyên sấm rằng Giê-ru-sa-lem sẽ được cứu vãn và đổi thay. Một hoạt động khác của ông là rao truyền sứ điệp an ủi và khích lệ những người con xa xứ giữ vững niềm trông cậy. Xét trên bước đường đầu trên hành trình ơn gọi, Ê-dê-ki-en xuất hiện với một ơn gọi đặc biệt trên đất khách quê người vì đa số các ngôn sứ được nhận ơn gọi trên quê cha đất tổ. Bản bản văn Ed 3, 16-21 có nội dung chính là trình bày một trong những nhiệm vụ của ngôn sứ, người canh thức. Nhiệm vụ này mang tính độc đáo và riêng biệt gắn liền với ơn gọi ngôn sứ của Ê-dê-ki-en. Xét theo trình tự tương đối của mạch văn, bản văn được xác định là phần đầu tiên (A) trong cấu trúc của đoạn văn lớn hơn Ed 3, 16-27 (A,B,A’)[2] tập trung vào tâm điểm những Lời của Thiên Chúa (hay ơn gọi của Ê-dê-ki-en) (B) Ed 3, 22-24a. Lời đó cần được đón nhận một cách riêng tư, tách biệt khỏi khỏi đời sống hằng ngày (nơi thủng lũng) với một thái độ khiêm nhường (sấp mặt xuống đất), vì Lời đó là lời Thánh Thiêng (Vinh Quang Đức Chúa, thần khí Đức Chúa).
Để có cách nhìn theo hướng tổng quát hơn về cuộc đời ngôn sứ của Ê-dê-ki-en, chúng ta xem xét đôi nét về hoạt động ngôn sứ của ông. Ê-dê-ki-en xuất hiện với hoạt động chủ yếu là tiên báo sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem sẽ chắc chắn xảy ra để đối lại với các ngôn sứ giả trong nước cũng như trên đất lưu đày vốn tuyên sấm rằng Giê-ru-sa-lem sẽ được cứu vãn và đổi thay. Một hoạt động khác của ông là rao truyền sứ điệp an ủi và khích lệ những người con xa xứ giữ vững niềm trông cậy. Xét trên bước đường đầu trên hành trình ơn gọi, Ê-dê-ki-en xuất hiện với một ơn gọi đặc biệt trên đất khách quê người vì đa số các ngôn sứ được nhận ơn gọi trên quê cha đất tổ. Bản bản văn Ed 3, 16-21 có nội dung chính là trình bày một trong những nhiệm vụ của ngôn sứ, người canh thức. Nhiệm vụ này mang tính độc đáo và riêng biệt gắn liền với ơn gọi ngôn sứ của Ê-dê-ki-en. Xét theo trình tự tương đối của mạch văn, bản văn được xác định là phần đầu tiên (A) trong cấu trúc của đoạn văn lớn hơn Ed 3, 16-27 (A,B,A’)[2] tập trung vào tâm điểm những Lời của Thiên Chúa (hay ơn gọi của Ê-dê-ki-en) (B) Ed 3, 22-24a. Lời đó cần được đón nhận một cách riêng tư, tách biệt khỏi khỏi đời sống hằng ngày (nơi thủng lũng) với một thái độ khiêm nhường (sấp mặt xuống đất), vì Lời đó là lời Thánh Thiêng (Vinh Quang Đức Chúa, thần khí Đức Chúa).
|
[2] Ed 3,16-27
|
|||||
|
|
A (3,16-21) Nhiệm vụ của ngôn sứ
|
|
3, 17 Hỡi con người, Ta đã đặt
ngươi làm người canh thức cho nhà Ít-ra-en.
|
||
|
|
|
B (3, 22-24a Những lời của Thiên Chúa.)
|
|
|
3, 22 Ngươi hãy trỗi dậy, ra thung
lũng và ở đó Ta sẽ phán với Ngươi.
|
|
|
A' (3, 24b-27)
Nhiệm vụ của ngôn sứ
|
|
3, 26 Ta sẽ làm cho lưỡi ngươi
dính với hàm và ngươi sẽ bị câm, để ngươi không còn là người khiển trách
chúng nữa, vì chúng là nòi phản loạn.
|
||
Cấu trúc của bản văn Ed 3, 16-21 là cấu trúc song đối, tập trung giải thích nhiệm vụ của ngôn sứ là người canh thức được giới thiệu ở câu 17 sau khi xác định thời gian bảy ngày sau biến cố xuất thần lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ của Ê-dê-ki-en (Ed 1, 1 – 3, 15). Giọng văn chuyển từ lời tường thuật qua trích dẫn trực tiếp lời của Thiên Chúa, chuyển từ ngôi thứ nhất sang ngôi thứ hai, cùng cách xưng hô: “Hỡi con người” (בֶּן־אָדָ֕ם (Eze 3:17 WTT)[3]). Cách xưng hô này được chuyển ngữ khác nhau trong Anh ngữ: thông thường được chuyển nguyên ngữ Son of man (Eze 3:17 KJV), hay biến thể Mortal, (Eze 3:17 NRS). Một điểm đặc biệt là cách xưng hô xuất hiện 99 lần dưới hai dạng khác nhau nhưng chỉ thấy xuất hiện: một lần trong Thánh Vịnh (Tv 80:18) bốn lần trong Giê-rê-mi-a (Gr 49, 18; 49, 33; 50, 40; 51, 43), một lần trong Đa-ni-en (Dn 8:17). Đây là cách xác định thân phận dòng dõi (con) của con người (Adam). Trong Thánh vịnh, người con ấy được Thiên Chúa tuyển chọn và đang ngồi bên hữu. Trong sách Giê-rê-mi-a, con người hiểu theo ý nghĩa loài người không còn cư ngụ ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Kha-mo, Ba-by-lon. Như thế, cách xưng này chỉ đặc biệt dành cho Ê-dê-ki-en với ý nghĩa một thân phận dễ hư nát được tuyển chọn. Phải chăng, đây cũng chính điểm nhấn về xác đất vật hèn của con người mà Ê-dê-ki-en đã tri nhận được? Sự thật thường minh chứng người hèn kém hay khiêm nhường thì thường lại được đụng chạm đến Thiên Chúa cách dễ dàng hơn những ai khôn ngoan, thông thái và tự cao tự đại.
Tiếp đến, Đức Chúa có hành động đặt để (made, appointed) vị trí ngôn sứ làm người canh thức (צֹפֶ֥ה (Eze 3:17 WTT)). Theo sát ý nghĩa bản văn trong sách Ê-dê-ki-en, người canh thức làm nhiệm vụ được đặt để, chỉ định bởi chính Thiên Chúa với nhiệm vụ “nghe” (וְשָׁמַעְתָּ֤ (Eze 3:17 WTT)) Lời Thiên Chúa rồi thay mặt Người mà truyền lại (cảnh báo, giảng dạy) cho dân. Thông truyền Lời Chúa là nhiệm vụ cơ bản của một ngôn sứ. Vì một ngôn sứ thật luôn là người trung gian rao truyền lời Thiên Chúa chứ không phải lời của cá nhân ngôn sứ. Ơn gọi ngôn sứ được đặt để bởi chính sự lựa chọn của Thiên Chúa chứ không phải do ước muốn của phàm nhân. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng không phải làm trường hợp ngoại lệ mặc dù vị trí người canh thức có đôi phần khác biệt. Người ngôn sứ sẽ bị “đòi nợ máu” nếu không thực hiện sứ vụ được giao. Phân tích bản văn cho thấy tập hợp hầu hết tất cả các trường hợp có thể xảy ra xoay quanh vấn đề báo hay không báo của người canh thức, lắng nghe hay không chịu lắng nghe của kẻ gian ác và người công chính (chi tiết tại phụ lục 1: Cấu trúc bản văn Ê-dê-ki-en 3, 17-21). Trường hợp (i): kẻ gian ác ( לָֽרָשָׁע֙ (Eze 3:18 WTT)) bị kết án tử mà không được nghe lời cảnh báo của người canh thức thì chung cuộc sẽ là cái chết. Trường hợp (ii): kẻ gian ác bị án tử mà biết ăn năn hối cải (bỏ lối sống xấu xa) khi nghe lời cảnh báo thì chung cuộc sẽ được sống. Trường hợp (iii): kẻ gian ác bị bán tử mà không chịu hối cải dù được nghe lời cảnh báo thì chung cuộc sẽ là chịu chết. Trường hợp (iv): người công chính (צַדִּ֤יק (Eze 3:20 WTT)) bỏ chính đạo mà làm điều bất chính mà không được người canh thức cảnh báo thì chung cuộc là cái chết dù họ đã từng làm bao nhiêu việc công chính đi nữa (người ta sẽ không còn nhớ đến việc công chính nó đã làm.) Trường hợp (v): người công chính được canh thức mà không phạm tội thì chung cuộc là được sống. Trường hợp (vi) dù chưa được nêu ra nhưng vẫn mặc định: người công chính tiếp tục theo chính đạo thì vẫn được sống. Trường hợp (vii): người canh thức cảnh báo cho kẻ gian ác và người công chính thì dù họ có lắng nghe hay không thì chung cuộc người canh thức được sống. Trường hợp (viii): người canh thức không cảnh báo cho kẻ gian ác lẫn người công chính biết từ bỏ hay tránh xa tà đạo thì người canh thức phải đền nợ máu hay bị Thiên Chúa đòi nợ máu. Chung quy lại, vấn đề của người nghe dù là công chính hay gian ác chỉ cần biết ăn năn hối cải hay tránh xa đường nẻo gian tà thì chung cuộc là tìm được sự sống. Ngược lại, họ sẽ lảnh nhận chung cuộc là cái chết. Do đó, vấn đề cứu được mang sống không hệ tại nhiều ở việc làm sai trái hay những việc công chính mà quan trọng là có biết trở về với chính đạo hay không. Điều này cho thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những “con chiên lạc”. Người không những đặt để những vị ngôn sứ làm người canh thức có nhiệm vụ cảnh báo mà còn sẳn sàng ban cho sự sống khi biết trở về cùng Thiên Chúa. Vấn đề của người canh thức không hệ tại ở người nghe nhưng hệ tại ở việc thực hiện nhiệm vụ cảnh báo (זְהַ֣רְ (Eze 3:19 WTT)). Như thế, sứ vụ quan trọng nhất của người ngôn sứ là lắng nghe Lời Thiên Chúa và ra sức cảnh báo cho những người Chúa sai đến. Sứ vụ đó không hệ tại ở người nghe có biết lắng nghe hay không (vì có khi Thiên Chúa còn làm cho vị ngôn sứ ra bị câm (Ed 3, 26) để dân chúng không thể nghe lời cảnh báo) mà hệ tại là thực hiện nó theo như ý muốn của Thiên Chúa. Sứ mạng của vị ngôn sứ, người canh thức bao gồm các khía cạnh: sự tỉnh thức, sự báo động, cũng như rao truyền các lời cảnh báo. Thế nhưng, việc hoàn thành nhiệm vụ không chỉ dừng lại ở lời nói mà còn dẫn người nghe vào trong lòng thương cảm của Thiên Chúa.[4]
Để hiểu hơn ý nghĩa biểu tượng người canh thức, tra vấn thực tế đời sống sẽ đem lại một vài gợi mở rõ ràng hơn. Quả thật trong xã hội nông nghiệp, các tháp canh được dựng nên ở vị trí cao để người canh gác có tầm nhìn bao quát nhằm mục đích quan sát bảo vệ đất đai và nhất là mùa màng tránh sự phá hoại của thú vật hay hao hụt bởi kẻ trộm cắp. Hình ảnh tháp canh được xây dựng trong vườn nho đã trở nên quen thuộc với nhiều người, đặc biệt là người dân Ít-ra-en. Như thế, nhiệm vụ của người canh thức là bảo vệ thực phẩm nói riêng và những tài sản có giá trị nói chung khỏi những nguy cơ bị phá hoại hay bị cướp đoạt. Trong xã hội xưa và nay, hình ảnh tháp canh trên các tường thành hay những nơi trọng yếu để quan sát bảo vệ thành trì hay khu vực bên trong cũng không lạ lẫm gì. Trong trường hợp này, người canh thức luôn tỉnh táo quan sát để phát hiện mọi nguy cơ từ xa[5] nhằm mục đích cảnh báo cho người bên trong ra sức bảo vệ. Khi trường hợp xấu diễn ra, người canh thức thông thường sẽ cảnh báo mọi người bằng cách phát đi những âm thanh quy ước đặc biệt mang theo nội dung cảnh báo. Xét trong trường hợp này, người canh thức có nhiệm vụ cảnh báo những nguy cơ rình rập từ xa và bên ngoài. Thế nhưng, trong những lúc yên bình, người canh thức ngoài nhiệm vụ quan sát bên ngoài với tầm nhìn xa, họ còn có điều kiện thuận lợi để quan sát mọi hoạt động bình thường diễn ra bên trong, nhất là những biểu hiện tiêu cực mang đến nguy cơ bất ổn từ chính bên trong. Với phân tích này, người canh thức có thể tổng hợp quan sát mà đưa ra những bình luận chính xác về những tình hình văn hóa – xã hội – chính trị - tôn giáo trong khu vực mà họ được đặt làm nhiệm vụ. Qua cách tiếp cận thực tế này, biểu tượng người canh thức có thể mang trong mình nhiệm vụ bảo vệ những giá trị cao quý (xét trong trường hợp lưu đày của Ê-dê-ki-en thì đó là căn tính của người Do-thái qua việc thực hành tôn giáo), cảnh báo những nguy cơ bên ngoài (chạy theo những hoạt động của dân ngoại, sống ảo tưởng khi tin rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không phá hủy, mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp trong thời gian ngắn), đọc ra các dấu chỉ thời đại (Thiên Chúa sẽ cứu vớt những ai trung tín với Người). Quả thật, Ê-dê-ki-en đã được mời gọi làm một vị ngôi sứ, người canh thức đi ngược dòng đời. Trong thời bình của những người công chính, ngôn sứ loan báo và cảnh tỉnh những hy vọng hão huyền và dẹp bỏ những cố công vô ích. Trong hoàn cảnh loạn lạc mất hết cậy trông, ngôn sứ là người an ủi và khích lệ để đoàn dân vượt qua tình cảnh hiện tại mà hướng về tương lai.
Tiếp cận bản văn trong một vài vị trí khác của Thánh kinh, biểu tượng người canh thức được tái xác định cách rõ ràng hơn. Trong giới hạn Biblework, ngoài ý nghĩa động từ che phủ (mạ vàng) trong các bản văn liên quan đến vật dụng phụng tự ( צִפָּ֣ה (Exo 36:34 WTT)), hình ảnh biểu tượng này chưa được tìm thấy một cách chính xác thuật ngữ. Tuy nhiên, hình ảnh lính gác trong sách I-sai-a (שֹֽׁמְרִ֔ים (Isa 62:6 WTT)) hay người canh giữ trong Thánh Vịnh (שׁוֹמֵֽר׃ (Psa 127:1 WTT)) cũng giúp soi sáng được phần nào nhiệm vụ của người canh thức. Trong sách I-sai-a đệ tam (56-66), nội dung chủ yếu tập trung vào “loan báo về ơn cứu độ, từ miệng của sứ giả được Đức Chúa sức dầu”. Ở cận trung tâm này, Is 62, 1-12 tập trung vào một “Giê-ru-sa-lem mới, được Đức Chúa ban vinh quang”, người lính gác (Is 62,6) giữ một nhiệm vụ quan trọng là “nhắc nhở Thiên Chúa” để Người không ngừng ban ơn giáng phúc và tái lập lại thành Thánh. Chính nhiệm vụ xem ra rất chủ động của con người này cũng không nằm ngoài ý định của Thiên Chúa vì chính Người đã đặt để những lính canh này trên tường thành của Ít-ra-en. Như vậy, hình ảnh lính gác gần như hình ảnh người canh thức đã làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn bình an cho dân Ít-ra-en qua biểu tượng hòa bình, vinh quang của thành Giê-ru-sa-lem. Người lính gác ở đây sẽ không bao giờ nín lặng để cảnh báo việc thiếu cảnh giác của toàn dân. Dù là rất quan trọng như thế, người lính canh cũng chỉ là hình ảnh đại diện của Thiên Chúa vì như trong câu Thánh Vịnh 127, 1: “Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Xét về vị trí người ngôn sứ, họ luôn phải xác tín thân phận nhỏ bé của mình dù được đặt để ở những vị trí quan trọng thì không có gì là nằm ngoài ý định của Thiên Chúa.
Một điểm đặc biệt liên quan đến chung cuộc của người canh gác cũng cần được làm sáng tỏ là “đòi ngươi đền nợ máu nó” hay đơn giản là “đền nợ máu”. Trong Ngũ Thư, việc đòi nợ máu xuất hiện lần đầu trong St 9, 5 sau lụt Đại Hồng Thủy. Thiên Chúa đã có phần hòa hoãn với con người khi cho họ được bắt đầu ăn thịt nhưng tuyệt đối không được ăn máu (דִּמְ (Gen 9:5 WTT)). Theo truyền thống Do-thái thì máu được xem như là sự sống và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên sự sống. Đền nợ máu ở đây có ý nghĩa cơ bản là bồi thường mạng sống. Cũng như ông Nô-ê và con cháu đã được cứu khỏi lụt đại hồng thủy đã phải dùng máu loài vật mà đền lại mạng mình thì con người cũng phải đổ máu ra để đền lại mạng sống họ đã cứu đi từ người khác. Việc đòi nợ máu này tái xuất hiện trong St 42, 22 khi ông Rưu-vên nêu lên lý do lâm cảnh tù tội do Giu-se thử lòng các anh em ông. Quả thế, nếu anh em ông Giu-se không tra tay bắt hại ông thì chắc họ đã không nhắc đến việc đòi nợ máu cho hành động của họ. Việc đòi nợ máu này tái xuất hiện trong Cựu Ước nhất là liên quan đến việc không ăn máu và làm hại đến mạng sống anh em mình. Có lẻ, cũng không quá đáng khi liên hệ việc đòi nợ máu này với cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu vì Người đã phải đổ máu mình ra mà đền tội cho nhân loại. Như thế, vị ngôn sứ, người canh thức thật sự có điểm rất đặc biệt là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình khi thi hành sứ vụ. Người canh thức một khi đã lãnh nhận Lời Chúa phán thì phải ra đi loan truyền nếu không muốn trả giá bằng chính mạng sống của mình. Xét trong chính sách Ê-dê-ki-en, đoạn văn Ê-dê-ki-en 3, 17-18 được sao chép lại hoàn toàn trong Ê-dê-ki-en 33, 7-8 như là dấu hiệu rõ ràng của việc biên tập của một tác giả ẩn mình đằng sau quyển sách. Nhà biên tập đã có ý nhấn mạnh nhiệm vụ ngôn sứ, người canh thức của Ê-dê-ki-en. Trong đoạn đầu Ê-dê-ki-en 33, 1-6, tác giả nhấn mạnh đến quân thù qua hình ảnh gươm (חָ֑רֶב (Eze 33:2 WTT)), đồng thời nêu rõ nhiệm vụ của người canh thức là thổi kèn như là một dấu hiệu cảnh báo cho toàn dân. Số phận chung cuộc của người canh thức cũng được xác định qua nhiệm vụ có được thực hiện hay không. Nếu người canh thức luôn tỉnh thức để thổi kèn cảnh báo thì cứu được mạng mình, ngược lại nếu không tỉnh thức để thổi kèn thì phải đền nợ máu. Thật ra, xét trên ý nghĩa dụ ngôn, Ê-dê-ki-en đang muốn cảnh báo toàn dân về biến cố Giê-ru-sa-lem bị vây hảm và bị tàn phá.[6] Mang trong mình thân phận người canh thức, Ê-dê-ki-en đã nhiều lần cố gắng thực thi sứ vụ của ông. Nếu ngôn sứ thật xét trên tiêu chuẩn lời tuyên sấm được thực hiện thì Ê-dê-ki-en đúng là ngôn sứ khi những cảnh báo của ông đã được chứng nghiệm trong thực tế lịch sử của dân Ít-ra-en. Có thể vấn đề đặt ra nhà biên tập đã dùng sự kiện thực mà viết ra những lời tiên báo? Thực tế, các nhà nghiên cứu không chứng minh được biến cố thực và lời tiên báo thì cái nào có trước. Thế nhưng, vấn đề tác phẩm được biên soạn lại thì khó có thể chối cải. Với thần học về Kinh Thánh thì việc đọc ra những sứ điệp quan trọng hơn là việc chứng thực những biến cố, những lời được viết thành văn bản. Một điểm quan trọng khác là Lời Chúa đã đi vào lịch sử cứu độ, đi vào văn hóa và đời sống hiện nay như thế nào?
Trong bối cảnh đất nước Việt nam đương thời, Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR đã đặt ra những câu hỏi cùng những bình luận rất xúc tích nhưng chuyên chở nhiều ưu tư sâu lắng qua việc đọc đoạn Ê-dê-ki-en 3, 16-21. Cha đã đặt ra những tra vấn từ trong chính đoạn văn:
Ai là kẻ được đặt làm người “tuần canh”[7]? (câu 17) Ai là “kẻ vô đạo” đang “theo đàng dữ”? (câu 18) Ai là “người công chính quay lưng cho sự công chính mà làm điều trái”? (câu 20). Đồng thời, cha dẫn chứng lời của Đức Tổng Ngô Quang Kiệt:
Trên quê hương đất nước Việt Nam hôm nay. Mọi nơi, mọi chỗ, ngập tràn chất độc,“lương tâm chết”, “lý trí chết”,“luân lý chết”,“chính trị chết”. Tiếp tục, cha đưa ra những dẫn chứng thực tế: Bốn tỉnh miền Trung chìm đắm trong đói khổ. Biển chết! Rừng chết! Đồng bằng sông Cửu Long chết! Cao nguyên cạn nước! Chết! Hai quả mìn bùn đỏ lơ lửng trên đầu. Biển đảo mất!
Tiếp đến, Đức Chúa có hành động đặt để (made, appointed) vị trí ngôn sứ làm người canh thức (צֹפֶ֥ה (Eze 3:17 WTT)). Theo sát ý nghĩa bản văn trong sách Ê-dê-ki-en, người canh thức làm nhiệm vụ được đặt để, chỉ định bởi chính Thiên Chúa với nhiệm vụ “nghe” (וְשָׁמַעְתָּ֤ (Eze 3:17 WTT)) Lời Thiên Chúa rồi thay mặt Người mà truyền lại (cảnh báo, giảng dạy) cho dân. Thông truyền Lời Chúa là nhiệm vụ cơ bản của một ngôn sứ. Vì một ngôn sứ thật luôn là người trung gian rao truyền lời Thiên Chúa chứ không phải lời của cá nhân ngôn sứ. Ơn gọi ngôn sứ được đặt để bởi chính sự lựa chọn của Thiên Chúa chứ không phải do ước muốn của phàm nhân. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng không phải làm trường hợp ngoại lệ mặc dù vị trí người canh thức có đôi phần khác biệt. Người ngôn sứ sẽ bị “đòi nợ máu” nếu không thực hiện sứ vụ được giao. Phân tích bản văn cho thấy tập hợp hầu hết tất cả các trường hợp có thể xảy ra xoay quanh vấn đề báo hay không báo của người canh thức, lắng nghe hay không chịu lắng nghe của kẻ gian ác và người công chính (chi tiết tại phụ lục 1: Cấu trúc bản văn Ê-dê-ki-en 3, 17-21). Trường hợp (i): kẻ gian ác ( לָֽרָשָׁע֙ (Eze 3:18 WTT)) bị kết án tử mà không được nghe lời cảnh báo của người canh thức thì chung cuộc sẽ là cái chết. Trường hợp (ii): kẻ gian ác bị án tử mà biết ăn năn hối cải (bỏ lối sống xấu xa) khi nghe lời cảnh báo thì chung cuộc sẽ được sống. Trường hợp (iii): kẻ gian ác bị bán tử mà không chịu hối cải dù được nghe lời cảnh báo thì chung cuộc sẽ là chịu chết. Trường hợp (iv): người công chính (צַדִּ֤יק (Eze 3:20 WTT)) bỏ chính đạo mà làm điều bất chính mà không được người canh thức cảnh báo thì chung cuộc là cái chết dù họ đã từng làm bao nhiêu việc công chính đi nữa (người ta sẽ không còn nhớ đến việc công chính nó đã làm.) Trường hợp (v): người công chính được canh thức mà không phạm tội thì chung cuộc là được sống. Trường hợp (vi) dù chưa được nêu ra nhưng vẫn mặc định: người công chính tiếp tục theo chính đạo thì vẫn được sống. Trường hợp (vii): người canh thức cảnh báo cho kẻ gian ác và người công chính thì dù họ có lắng nghe hay không thì chung cuộc người canh thức được sống. Trường hợp (viii): người canh thức không cảnh báo cho kẻ gian ác lẫn người công chính biết từ bỏ hay tránh xa tà đạo thì người canh thức phải đền nợ máu hay bị Thiên Chúa đòi nợ máu. Chung quy lại, vấn đề của người nghe dù là công chính hay gian ác chỉ cần biết ăn năn hối cải hay tránh xa đường nẻo gian tà thì chung cuộc là tìm được sự sống. Ngược lại, họ sẽ lảnh nhận chung cuộc là cái chết. Do đó, vấn đề cứu được mang sống không hệ tại nhiều ở việc làm sai trái hay những việc công chính mà quan trọng là có biết trở về với chính đạo hay không. Điều này cho thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những “con chiên lạc”. Người không những đặt để những vị ngôn sứ làm người canh thức có nhiệm vụ cảnh báo mà còn sẳn sàng ban cho sự sống khi biết trở về cùng Thiên Chúa. Vấn đề của người canh thức không hệ tại ở người nghe nhưng hệ tại ở việc thực hiện nhiệm vụ cảnh báo (זְהַ֣רְ (Eze 3:19 WTT)). Như thế, sứ vụ quan trọng nhất của người ngôn sứ là lắng nghe Lời Thiên Chúa và ra sức cảnh báo cho những người Chúa sai đến. Sứ vụ đó không hệ tại ở người nghe có biết lắng nghe hay không (vì có khi Thiên Chúa còn làm cho vị ngôn sứ ra bị câm (Ed 3, 26) để dân chúng không thể nghe lời cảnh báo) mà hệ tại là thực hiện nó theo như ý muốn của Thiên Chúa. Sứ mạng của vị ngôn sứ, người canh thức bao gồm các khía cạnh: sự tỉnh thức, sự báo động, cũng như rao truyền các lời cảnh báo. Thế nhưng, việc hoàn thành nhiệm vụ không chỉ dừng lại ở lời nói mà còn dẫn người nghe vào trong lòng thương cảm của Thiên Chúa.[4]
Để hiểu hơn ý nghĩa biểu tượng người canh thức, tra vấn thực tế đời sống sẽ đem lại một vài gợi mở rõ ràng hơn. Quả thật trong xã hội nông nghiệp, các tháp canh được dựng nên ở vị trí cao để người canh gác có tầm nhìn bao quát nhằm mục đích quan sát bảo vệ đất đai và nhất là mùa màng tránh sự phá hoại của thú vật hay hao hụt bởi kẻ trộm cắp. Hình ảnh tháp canh được xây dựng trong vườn nho đã trở nên quen thuộc với nhiều người, đặc biệt là người dân Ít-ra-en. Như thế, nhiệm vụ của người canh thức là bảo vệ thực phẩm nói riêng và những tài sản có giá trị nói chung khỏi những nguy cơ bị phá hoại hay bị cướp đoạt. Trong xã hội xưa và nay, hình ảnh tháp canh trên các tường thành hay những nơi trọng yếu để quan sát bảo vệ thành trì hay khu vực bên trong cũng không lạ lẫm gì. Trong trường hợp này, người canh thức luôn tỉnh táo quan sát để phát hiện mọi nguy cơ từ xa[5] nhằm mục đích cảnh báo cho người bên trong ra sức bảo vệ. Khi trường hợp xấu diễn ra, người canh thức thông thường sẽ cảnh báo mọi người bằng cách phát đi những âm thanh quy ước đặc biệt mang theo nội dung cảnh báo. Xét trong trường hợp này, người canh thức có nhiệm vụ cảnh báo những nguy cơ rình rập từ xa và bên ngoài. Thế nhưng, trong những lúc yên bình, người canh thức ngoài nhiệm vụ quan sát bên ngoài với tầm nhìn xa, họ còn có điều kiện thuận lợi để quan sát mọi hoạt động bình thường diễn ra bên trong, nhất là những biểu hiện tiêu cực mang đến nguy cơ bất ổn từ chính bên trong. Với phân tích này, người canh thức có thể tổng hợp quan sát mà đưa ra những bình luận chính xác về những tình hình văn hóa – xã hội – chính trị - tôn giáo trong khu vực mà họ được đặt làm nhiệm vụ. Qua cách tiếp cận thực tế này, biểu tượng người canh thức có thể mang trong mình nhiệm vụ bảo vệ những giá trị cao quý (xét trong trường hợp lưu đày của Ê-dê-ki-en thì đó là căn tính của người Do-thái qua việc thực hành tôn giáo), cảnh báo những nguy cơ bên ngoài (chạy theo những hoạt động của dân ngoại, sống ảo tưởng khi tin rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không phá hủy, mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp trong thời gian ngắn), đọc ra các dấu chỉ thời đại (Thiên Chúa sẽ cứu vớt những ai trung tín với Người). Quả thật, Ê-dê-ki-en đã được mời gọi làm một vị ngôi sứ, người canh thức đi ngược dòng đời. Trong thời bình của những người công chính, ngôn sứ loan báo và cảnh tỉnh những hy vọng hão huyền và dẹp bỏ những cố công vô ích. Trong hoàn cảnh loạn lạc mất hết cậy trông, ngôn sứ là người an ủi và khích lệ để đoàn dân vượt qua tình cảnh hiện tại mà hướng về tương lai.
Tiếp cận bản văn trong một vài vị trí khác của Thánh kinh, biểu tượng người canh thức được tái xác định cách rõ ràng hơn. Trong giới hạn Biblework, ngoài ý nghĩa động từ che phủ (mạ vàng) trong các bản văn liên quan đến vật dụng phụng tự ( צִפָּ֣ה (Exo 36:34 WTT)), hình ảnh biểu tượng này chưa được tìm thấy một cách chính xác thuật ngữ. Tuy nhiên, hình ảnh lính gác trong sách I-sai-a (שֹֽׁמְרִ֔ים (Isa 62:6 WTT)) hay người canh giữ trong Thánh Vịnh (שׁוֹמֵֽר׃ (Psa 127:1 WTT)) cũng giúp soi sáng được phần nào nhiệm vụ của người canh thức. Trong sách I-sai-a đệ tam (56-66), nội dung chủ yếu tập trung vào “loan báo về ơn cứu độ, từ miệng của sứ giả được Đức Chúa sức dầu”. Ở cận trung tâm này, Is 62, 1-12 tập trung vào một “Giê-ru-sa-lem mới, được Đức Chúa ban vinh quang”, người lính gác (Is 62,6) giữ một nhiệm vụ quan trọng là “nhắc nhở Thiên Chúa” để Người không ngừng ban ơn giáng phúc và tái lập lại thành Thánh. Chính nhiệm vụ xem ra rất chủ động của con người này cũng không nằm ngoài ý định của Thiên Chúa vì chính Người đã đặt để những lính canh này trên tường thành của Ít-ra-en. Như vậy, hình ảnh lính gác gần như hình ảnh người canh thức đã làm rõ hơn nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn bình an cho dân Ít-ra-en qua biểu tượng hòa bình, vinh quang của thành Giê-ru-sa-lem. Người lính gác ở đây sẽ không bao giờ nín lặng để cảnh báo việc thiếu cảnh giác của toàn dân. Dù là rất quan trọng như thế, người lính canh cũng chỉ là hình ảnh đại diện của Thiên Chúa vì như trong câu Thánh Vịnh 127, 1: “Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Xét về vị trí người ngôn sứ, họ luôn phải xác tín thân phận nhỏ bé của mình dù được đặt để ở những vị trí quan trọng thì không có gì là nằm ngoài ý định của Thiên Chúa.
Một điểm đặc biệt liên quan đến chung cuộc của người canh gác cũng cần được làm sáng tỏ là “đòi ngươi đền nợ máu nó” hay đơn giản là “đền nợ máu”. Trong Ngũ Thư, việc đòi nợ máu xuất hiện lần đầu trong St 9, 5 sau lụt Đại Hồng Thủy. Thiên Chúa đã có phần hòa hoãn với con người khi cho họ được bắt đầu ăn thịt nhưng tuyệt đối không được ăn máu (דִּמְ (Gen 9:5 WTT)). Theo truyền thống Do-thái thì máu được xem như là sự sống và chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên sự sống. Đền nợ máu ở đây có ý nghĩa cơ bản là bồi thường mạng sống. Cũng như ông Nô-ê và con cháu đã được cứu khỏi lụt đại hồng thủy đã phải dùng máu loài vật mà đền lại mạng mình thì con người cũng phải đổ máu ra để đền lại mạng sống họ đã cứu đi từ người khác. Việc đòi nợ máu này tái xuất hiện trong St 42, 22 khi ông Rưu-vên nêu lên lý do lâm cảnh tù tội do Giu-se thử lòng các anh em ông. Quả thế, nếu anh em ông Giu-se không tra tay bắt hại ông thì chắc họ đã không nhắc đến việc đòi nợ máu cho hành động của họ. Việc đòi nợ máu này tái xuất hiện trong Cựu Ước nhất là liên quan đến việc không ăn máu và làm hại đến mạng sống anh em mình. Có lẻ, cũng không quá đáng khi liên hệ việc đòi nợ máu này với cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu vì Người đã phải đổ máu mình ra mà đền tội cho nhân loại. Như thế, vị ngôn sứ, người canh thức thật sự có điểm rất đặc biệt là phải trả giá bằng chính mạng sống của mình khi thi hành sứ vụ. Người canh thức một khi đã lãnh nhận Lời Chúa phán thì phải ra đi loan truyền nếu không muốn trả giá bằng chính mạng sống của mình. Xét trong chính sách Ê-dê-ki-en, đoạn văn Ê-dê-ki-en 3, 17-18 được sao chép lại hoàn toàn trong Ê-dê-ki-en 33, 7-8 như là dấu hiệu rõ ràng của việc biên tập của một tác giả ẩn mình đằng sau quyển sách. Nhà biên tập đã có ý nhấn mạnh nhiệm vụ ngôn sứ, người canh thức của Ê-dê-ki-en. Trong đoạn đầu Ê-dê-ki-en 33, 1-6, tác giả nhấn mạnh đến quân thù qua hình ảnh gươm (חָ֑רֶב (Eze 33:2 WTT)), đồng thời nêu rõ nhiệm vụ của người canh thức là thổi kèn như là một dấu hiệu cảnh báo cho toàn dân. Số phận chung cuộc của người canh thức cũng được xác định qua nhiệm vụ có được thực hiện hay không. Nếu người canh thức luôn tỉnh thức để thổi kèn cảnh báo thì cứu được mạng mình, ngược lại nếu không tỉnh thức để thổi kèn thì phải đền nợ máu. Thật ra, xét trên ý nghĩa dụ ngôn, Ê-dê-ki-en đang muốn cảnh báo toàn dân về biến cố Giê-ru-sa-lem bị vây hảm và bị tàn phá.[6] Mang trong mình thân phận người canh thức, Ê-dê-ki-en đã nhiều lần cố gắng thực thi sứ vụ của ông. Nếu ngôn sứ thật xét trên tiêu chuẩn lời tuyên sấm được thực hiện thì Ê-dê-ki-en đúng là ngôn sứ khi những cảnh báo của ông đã được chứng nghiệm trong thực tế lịch sử của dân Ít-ra-en. Có thể vấn đề đặt ra nhà biên tập đã dùng sự kiện thực mà viết ra những lời tiên báo? Thực tế, các nhà nghiên cứu không chứng minh được biến cố thực và lời tiên báo thì cái nào có trước. Thế nhưng, vấn đề tác phẩm được biên soạn lại thì khó có thể chối cải. Với thần học về Kinh Thánh thì việc đọc ra những sứ điệp quan trọng hơn là việc chứng thực những biến cố, những lời được viết thành văn bản. Một điểm quan trọng khác là Lời Chúa đã đi vào lịch sử cứu độ, đi vào văn hóa và đời sống hiện nay như thế nào?
Trong bối cảnh đất nước Việt nam đương thời, Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSsR đã đặt ra những câu hỏi cùng những bình luận rất xúc tích nhưng chuyên chở nhiều ưu tư sâu lắng qua việc đọc đoạn Ê-dê-ki-en 3, 16-21. Cha đã đặt ra những tra vấn từ trong chính đoạn văn:
Ai là kẻ được đặt làm người “tuần canh”[7]? (câu 17) Ai là “kẻ vô đạo” đang “theo đàng dữ”? (câu 18) Ai là “người công chính quay lưng cho sự công chính mà làm điều trái”? (câu 20). Đồng thời, cha dẫn chứng lời của Đức Tổng Ngô Quang Kiệt:
Trên quê hương đất nước Việt Nam hôm nay. Mọi nơi, mọi chỗ, ngập tràn chất độc,“lương tâm chết”, “lý trí chết”,“luân lý chết”,“chính trị chết”. Tiếp tục, cha đưa ra những dẫn chứng thực tế: Bốn tỉnh miền Trung chìm đắm trong đói khổ. Biển chết! Rừng chết! Đồng bằng sông Cửu Long chết! Cao nguyên cạn nước! Chết! Hai quả mìn bùn đỏ lơ lửng trên đầu. Biển đảo mất!
Ê-dê-ki-en trong thân phận người con xa xứ được mời gọi phục vụ những người tha hương. Dù sống trong điều kiện kinh tế không quá khó khăn nhưng tâm tình hoài hương không bao giờ vơi cạn. Phải chăng tâm tình đó cũng đúng cho những người con Việt Nam xa xứ? Có dịp sống và học tập xa quê, những ai tiếp xúc với cộng đồng hải ngoại luôn cảm nhận được tâm tình thương nhớ quê nhà và mong có dịp trở về xây dựng lại cửa nhà, quê hương đất nước. Dù thực tế, quê hương xinh đẹp đã bị tàn phá bởi chiến tranh và đang được vận hành bởi một bộ máy có nhiều yếu kém. Nếu được mời gọi trả lời những câu hỏi đã nêu, mỗi người chắc hẳn sẽ nhận ra được sứ vụ làm người canh gác, người sẳn sàng lắng nghe tiếng Chúa mà rao truyền cho những ai Người sai đến? Liệu rằng chúng ta đã chu toàn sứ vụ rao giảng hay chưa? Phải chăng chúng ta cứ mãi lặng thing để tìm sự “an bình” tạm thời? Có chăng chúng ta quên mất mình sẽ phải “đền nợ máu” khi chưa thực hiện nhiệm vụ canh thức? Liệu chúng ta có thể giữ được cuộc sống đời đời khi lắng nghe tiếng Chúa mà lại “đào lổ chôn dấu” không? Một mặt khác, đôi khi chúng ta quên mất mình cũng đóng vai kẻ ác đi theo tà đạo hay người công chính lạc xa chính đạo. Lời Thánh Vịnh 139 mời gọi thân xác bụi tro của chúng ta ca vang mãi:
“Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.
Quả thật, mỗi người Kitô hữu khi chịu phép rửa tội đang dự phần vào tính ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Mỗi người khi đọc bản văn đều nhận ra tiếng Chúa đang ngỏ lời với đọc giả. Bởi vì, ai có thể nằm ngoài lời Thiên Chúa gọi: “Hỡi con người”? Phải chăng đâu đó còn tồn tại ai đó không phải là “con người”? Vậy nếu đã mang thân phận con người và lắng nghe tiếng Chúa mời gọi làm người canh thức thì chắc hẳn chúng ta muốn cứu lấy mạng mình chứ không muốn đền nợ máu. Một khi đã mang trong mình tính ngôn sứ phổ quát thì người tín hữu cũng được mời gọi vào vai trò người canh thức (không phải để canh giữ hoà bình thế giới). Người canh thức được chính Thiên Chúa đặt để với mục đích canh thức, cảnh báo, và rao truyền Lời Chúa đã nhận được trong nơi sâu thẳm của tâm hồn. Người canh thức sẽ luôn miệng rao truyền để thức tỉnh con người về lòng thương xót của Thiên Chúa nhưng cũng có khi câm nín nếu đó là ý của Người. Trong lúc yên bình, người canh thức phân tích dấu chỉ thời đại để sẳn sàng đối mặt với những diễn biến phức tạp trong tương lai. Khi gặp cảnh loạn lạc, người canh thức giữ vững niềm trông cậy đồng thời khuyến khích an ủi người công chính đi trong chính đạo và người gian ác từ bỏ tà đạo. Đặc biệt, người canh thức phải thực thi sứ vụ loan báo Lời Chúa dù có phải đối mặt với nguy cơ thiệt hại mạng sống đời này nhưng cứu được mạng sống đời đời.
Thư Mục
Sách
1. Carson - France (Eds). New Bible Commentary 21st Century Edition.
2. John W. Miller. Meet the Prophets. (Paulist Press – New York/Mahwah.)
3. Peter C. Craigie. The Daily Stydy Bible Series – Ezekiel. (Westminster John Knox Press: Louisville – London)
4. Steven Tuel. Ezekiel. (Baker Books; Michigan: 2012)
Nguồn Internet
1. http://www.bible.literarystructure.info/bible/26_Ezekiel_pericope_e.html#2
2. https://www.ucg.org/the-good-news/the-role-of-a-watchman-part-1-what-does-it-mean-for-you
Phụ lục 1: Cấu trúc
đoạn văn Ê-dê-ki-en 3, 17-21
“Lạy Chúa, xin dò xét để biết rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn đời.
Quả thật, mỗi người Kitô hữu khi chịu phép rửa tội đang dự phần vào tính ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Mỗi người khi đọc bản văn đều nhận ra tiếng Chúa đang ngỏ lời với đọc giả. Bởi vì, ai có thể nằm ngoài lời Thiên Chúa gọi: “Hỡi con người”? Phải chăng đâu đó còn tồn tại ai đó không phải là “con người”? Vậy nếu đã mang thân phận con người và lắng nghe tiếng Chúa mời gọi làm người canh thức thì chắc hẳn chúng ta muốn cứu lấy mạng mình chứ không muốn đền nợ máu. Một khi đã mang trong mình tính ngôn sứ phổ quát thì người tín hữu cũng được mời gọi vào vai trò người canh thức (không phải để canh giữ hoà bình thế giới). Người canh thức được chính Thiên Chúa đặt để với mục đích canh thức, cảnh báo, và rao truyền Lời Chúa đã nhận được trong nơi sâu thẳm của tâm hồn. Người canh thức sẽ luôn miệng rao truyền để thức tỉnh con người về lòng thương xót của Thiên Chúa nhưng cũng có khi câm nín nếu đó là ý của Người. Trong lúc yên bình, người canh thức phân tích dấu chỉ thời đại để sẳn sàng đối mặt với những diễn biến phức tạp trong tương lai. Khi gặp cảnh loạn lạc, người canh thức giữ vững niềm trông cậy đồng thời khuyến khích an ủi người công chính đi trong chính đạo và người gian ác từ bỏ tà đạo. Đặc biệt, người canh thức phải thực thi sứ vụ loan báo Lời Chúa dù có phải đối mặt với nguy cơ thiệt hại mạng sống đời này nhưng cứu được mạng sống đời đời.
Thư Mục
Sách
1. Carson - France (Eds). New Bible Commentary 21st Century Edition.
2. John W. Miller. Meet the Prophets. (Paulist Press – New York/Mahwah.)
3. Peter C. Craigie. The Daily Stydy Bible Series – Ezekiel. (Westminster John Knox Press: Louisville – London)
4. Steven Tuel. Ezekiel. (Baker Books; Michigan: 2012)
Nguồn Internet
1. http://www.bible.literarystructure.info/bible/26_Ezekiel_pericope_e.html#2
2. https://www.ucg.org/the-good-news/the-role-of-a-watchman-part-1-what-does-it-mean-for-you
Phụ lục 1: Cấu trúc
đoạn văn Ê-dê-ki-en 3, 17-21
|
Mở
Nhận
nhiệm vụ
|
16 Vậy hết bảy ngày, có lời Ðức Chúa phán với
tôi rằng:
17a
"Hỡi con người, Ta đã đặt
ngươi làm người canh thức cho nhà Ít-ra-en.
17b
Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho
chúng biết.
|
|
|
|
Kẻ
ác bị luận tội
Ngôn
sứ không báo
Kẻ
ác chết
Ngôn
sứ đền nợ máu
|
18a
Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: "Chắc chắn ngươi sẽ phải chết",
18b
và nếu ngươi không báo cho
kẻ gian ác đó biết, không nói để cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, cho nó được
sống,
18c
thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì
tội lỗi của nó,
18d
nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.
|
19a Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho
kẻ gian ác,
19b
mà nó không từ bỏ hành vi gian ác
và lối sống xấu xa của nó,
19c
thì nó sẽ phải chết vì tội của nó;
19d còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống
mình.
|
Ngôn
sứ báo
Kẻ
ác không hối cải
Kẻ
ác chết
Ngôn
sứ tự cứu
|
|
A’
Người
công chính sai lạc
Ngôn
sứ không báo
Người
công chính chết
Ngôn
sứ đền nợ máu
|
20a
Nếu như kẻ công chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà làm điều
bất chính,
20b
thì Ta sẽ đặt chướng ngại trước mắt nó; nó sẽ phải chết, bởi vì ngươi đã không báo cho nó.
20c
Nó sẽ phải chết vì tội lỗi của nó và người ta sẽ không còn nhớ đến việc
công chính nó đã làm;
20d
nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.
|
21a
Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ công chính để nó không phạm
tội và chính nó không phạm tội,
21b
thì chắc chắn nó sẽ được sống,
21c
vì nó đã được báo cho biết; còn
ngươi,
21d
ngươi sẽ cứu được mạng sống mình."
|
B’
Ngôn
sứ báo
Người
công chính sống
Người
công chính được báo
Ngôn
sứ tự cứu
|
[1]
John W. Miller. Meet the Prophets. Paulist
Press – New York/Mahwah. 178-180. Đa số sử liệu ghi nhận năm 597 là thời gian xảy
ra cuộc lưu đày đầu tiên nhưng tác giả lại ghi nhận ở đây là năm 598
[3]
Các trích dẫn nguyên văn kèm chú thích BibleWorks 9.
[4]
Peter C. Craigie. The Daily Stydy Bible
Series – Ezekiel. (Westminster John Knox Press; Louisville – London) 24.
[5] Carson
- France (Eds). New Bible Commentary 21st
Century Edition. 921
[6]
Peter C. Craigie. The Daily Stydy Bible
Series – Ezekiel. Westminster John Knox Press: Louisville – London. 235
[7] Một
cách dùng khác của từ canh thức.
No comments:
Post a Comment