Monday, July 17, 2017

Giáo Hội Học - Lời mời gọi Hiệp Thông (Noted)

     Richard Gailladertz. Ecclesiology for  a Global Church. Orbis, 2008.
Chapter 3: A People Called to Communion
Giới thiệu chung. Lời mời gọi hiệp nhất khởi phát đi từ chính Chúa Giêsu qua lời nguyện trước khi về trời. Phải chăng Chúa đã biết những người theo Người sẽ không hiệp nhất hay đã có sự bất hòa trong cộng đoàn tiên khởi nên tác giả Tin Mừng mới đặt lời cầu nguyện lên miệng Chúa Giêsu?
1.      Giáo hội địa phương và giáo hội hoàn vũ là mối tương quan thống nhất không chỉ về không gian, thời gian mà còn về tinh thần thiêng liêng. Thánh thể là trung tâm hiệp nhất của toàn thể giáo hội. Giáo hội như là Thân thể Chúa Giêsu là hình ảnh của sự hiệp nhất. Henri de Lubac nhận định: Thánh Thể thiết lập Giáo hội (eucharistia facit ecclesiam), nổi bật mối dây liên kết giữa thần học và giáo hội học mang tính bí tích. Thống nhất trong tình hiệp thông được xây dựng trên nền tảng mầu nhiệm Ba Ngôi.
2.      Trong ngàn năm đầu tiên, Giáo hội phát triển trên nền tảng bí tích và mầu nhiệm ba ngôi. Có lẻ đôi mắt của Chúa đã mờ đi dưới cách nhìn của con người. Sự phân rẻ thường được nhìn lại qua lăng kính dị giáo và ly giáo khi có sự khác biệt về tính chính thống. Khởi đầu, Giáo hội hình thành trong những nền văn hóa, xã hội, chính trị nhỏ lẻ nên chưa có sự phân hóa rõ rệt. Tiến dần trong sự phát triển, Giáo hội tiến lên trong sự phát triển Đức Tin rộng khắp cư dân Assyrian đến trên vùng Lưỡng Hà (Mesopotania) nên Giáo hội chịu sự phân hóa rõ rệt hơn. Vết thương sâu rộng và phức tạp cho đến ngày nay là biến cố ly giáo Đông Tây.
3.      Phát triển cơ cấu giáo hội nhằm phục vụ sự hiệp thông của các Giáo hội. Synod là dấu hiệu hiệp thông giữa các giáo hội, là sự ghi nhận vị trí mục tử của Giám mục ở giáo hội địa phương và Ngài cũng có trách nhiệm trong giáo hội hoàn vũ. Công đồng chung là sự hiệp thông lớn hơn các synod trong khu vực, ban đầu thường được triệu tập bởi Đế Vương nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến giáo hội toàn cầu.
Sự phát triển song song giữa quyền giáo phụ và quyền công đồng gây ra nhiều tranh cãi. Các tòa thượng phụ lớn như Rome, Antioch, Alexandria, Constantinople đóng vai trò chủ chốt trong ngàn năm đầu của Giáo hội. Trong khi đó, Giáo hội Rome ghi nhận Giám Mục của mình là người kế vị thánh Phêrô và là đầu của toàn thể các tông đồ. Quyền tối thượng của Giáo Hoàng được phát triển và được nhìn nhận rộng rãi ở giáo hội Tây Phương, trong khi Tây Phương ghi nhận quyền của các Thượng phụ và liên hệ với quyền của Đế Vương. Trên thực tế ngàn năm đầu tiên, quyền Giáo hoàng hay Tòa Thánh rất mờ nhạt và có sự nhập nhằng giữa thần quyền và thế quyền.
4.      Cuộc cải cách tôn giáo thế kỷ 16 của phòng trào thệ phản, cùng với sự không khoan nhượng cách tai hại của các Giáo hoàng, đã khiến cộng đồng Kitô hữu phải cố gắng hơn 4 thế kỷ sau để sữa chữa. Nền tảng cho sự hiệp nhất là đức tin vào Đức Giêsu Kitô qua việc đáp lại Lời Chúa, chứ không phải là một cơ cấu phẩm trật. Những thế kỷ sau CĐ Trent, Giáo hội học của GH Công Giáo Rôma nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh hộ giáo. Công đồng Vatican II có nhiều điểm nhìn nhận đúng đắn hơn về giáo hội. Giáo hội là dân mới của Thiên Chúa, bí tích của ơn cưu độ, dân của Đấng Mesia, và Giáo hội lữ hành. Sự hiệp thông vẫn là nền tảng cho việc tiếp cận Kinh Thánh và truyền thống qua các giáo phụ. Luật yêu thương giúp nhìn nhận mọi người đều là dân Thiên Chúa. Giáo hội là dấu hiệu bề ngoài ban ơn cứu độ bên trong nhờ Chúa Giêsu Kitô.
5.      Công đồng không chỉ dừng lại ở việc luận bàn mối tương quan giữa giáo hội địa phương và hoàn vũ, nhưng còn nhắm đến phong trào đại kết. Ý thức tình trạng chia rẽ gây trở ngại lớn cho việc truyền giáo, phong trào đại kết đã được khởi xướng giữa các Kitô hữu vì cùng niềm tin vào một Đức Kitô, cùng chịu một phép rửa, và đang buộc phải đối phó với thế giới vô thần, duy vật, đối nghịch với phúc âm Đức Kitô, các kitô hữu không thể không đau lòng nhìn cảnh chia rẽ và mong sớm thấy sự hợp nhất. Hầu hết các cuộc tranh luận về vấn đề đại kết dựa trên hai văn kiện: sắc lệnh về đại kết (Unitatis Redintegratio) và hiến chế tín lý về giáo hội (Lumen Gentium)
6.      Đại kết trở thành một trong những tâm điểm đem lại sự hiệp nhất và hòa bình. Ngày 25-11-1959 ĐGH Phaolô XXIII ngõ lời mời gọi các tôn giáo khác tham gia vào Công Đồng (CĐ) như là ngày hội của ân sủng và tình anh em. CĐ cho rằng những người ngoài Giáo hội có thể được cứu độ và chính họ là phương tiện của sự cứu độ. Còn những ai đã chịu phép rửa đều liên kết với Giáo hội. (LG 15). Bất cứ ở đâu Lời Chúa được công bố, các bí tích được cử hành và các tín hữu theo Đức KITÔ thì ở đó là Hội Thánh của Đức Giêsu Kitô. (Pio IX). Hội nghị công đồng các giáo hội thế giới diễn ra tại Nairobi năm 1975 cho rằng: “họ trở nên một khi họ tuyên xưng Lời Chúa của Đức Kitô và và phục vụ thế giới.” Hội nghị công đồng các giáo hội thế giới diễn ra tại Canberra năm 1991 cho rằng: “Mục tiêu của sự tìm kiếm về sự hiệp thông tròn đầy là khi mọi người nhận ra nhau trong sự thánh thiện, duy nhất và tông truyền.”
7.      Hiệp nhất trong Giáo hội Hoàn vũ qua các Giáo hội địa phương. Giáo hội như là một sự hiệp nhất toàn cầu của các GH địa phương. Theo Karh Rahner: CĐ Vatican II đánh dấu một bước ngoặt của sự khám phá của GH: GH – thế giới. Đó là GH xem Giáo hội địa phương như là nơi hiện diện của Giáo hội hoàn vũ: Lời Chúa được công bố, đón nhận và đi ra. Kasper – Giáo hội hoàn vũ không phải là một sự trừu tượng nhưng là một Giáo hội địa phương ở Giêrusalem. Vào ngày Lễ Hiện Xuống, Giáo hội hoàn vũ và địa phương đã xuất hiện như là một dấu hiệu thực sự. Ratzinger: khẳng định về sự ưu thế của Giáo hội hoàn vũ. Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ có thể đưa ra một nền tảng rõ ràng về một GH Công giáo tròn đầy. Trong khi GH ở Nam Mỹ Latin nói về TH giải phóng và nhấn mạnh về “dấu chỉ thời đại”, thì một cuộc hội nghị của các GM châu Á đã đề xuất về vấn đề canh tân GH trong việc rao giảng Lời Chúa. Việc đầu tiên là tập trung vào công việc của chúng ta về truyền giáo là xây dựng một GH địa phương thực sự. Mỗi GH địa phương là món quà về văn hóa vùng miền. Sự giải phóng và hội nhập văn hóa là chiều kích không thể tách rời trong sứ mạng của GH. Trong đó, GH địa phương không phải là một cộng đoàn riêng biệt, nhưng là tìm kiếm sự hiệp thông với tất cả các GH khác: tuyên xưng một đức tin, chia sẻ một Thần Khí và sự sống bí tích trong một cách đặc biệt với GH hoàn vũ.
8.      Cộng đoàn Giáo Hội Cơ Bản (BECs) lần đầu tiên xuất hiện ở Brazil những năm của thập niên 50. Hiếm khi có các linh mục hiện diện trong các cuộc họp cộng đoàn, vì thế mà không phải lúc nào cũng cử hành các bí tích trong các cuộc họp, thường thì người ta quy tụ nhau đọc Kinh Thánh và phản tỉnh từ đoạn Kinh Thánh đó. Theo Carlos Mester, các cộng đoàn đọc Kinh Thánh dựa vào bối cảnh lúc bấy giờ và xem nó như một buổi cử hành phụng vụ. Điều này giúp họ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa giữa các cộng đoàn và cũng nhận ra sự vắng mặt của Thiên Chúa và ý thức về bối cảnh xã hội lúc này, thường mang nét đặc trưng về sự bất công rõ rệt, sự đàn áp và đi ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa nơi họ. Các nhà thần học giải phóng đã nhấn mạnh đến ý nghĩa về một giáo hội địa phương thực sự nơi các cộng đoàn này, khẳng định rằng họ xứng đáng có danh hiệu “giáo hội địa phương”. Vào năm 1986, một linh mục người Đức phục vụ ở Nam Phi, tên là Lumko, ngài đã phát triển một mô hình để giúp các giáo hội địa phương tại đó từ mẫu thức “cung cấp” sang mẫu thức “một cộng đoàn của nhiều cộng đoàn”, những nơi có nhiều giáo xứ lớn thì tổ chức các nhóm BECs, mỗi nhóm này sẽ được dẫn dắt bởi một đội các thừa tác viên giáo dân. Các nhóm này sẽ được quy tụ chung với nhau tham dự cử hành Bí tích thánh thể vào ngày Chúa Nhật. Tùy vào bối cảnh xã hội của từng khu vực mà hình thành nên các giáo hội địa phương thích ứng với văn hóa và truyền thống của nơi đó. Như ở Châu Mỹ Latin thì mang năng văn hóa bộ tộc và gia đình.

Tra vấn – Phản tỉnh
1.      Ly giáo và dị giáo là do khác biệt quan điểm hay do chính sự tranh dành quyền lực ẩn đằng sau những giáo thuyết?
2.      Việc kết án người vô thần, cụ thể như những người cộng sản vô thần ở Việt Nam có phải là một chủ trương đúng đắn và hợp lý chăng?
3.      Nên nhìn nhận lại vấn đề truyền giáo ở Á Châu như thế nào khi dân số đông mà người biết Chúa còn rất giới hạn? Phải chăng giáo hội địa phương còn nặng về cơ cấu mà bỏ qua tinh thần phát triển đời sống con người?

4.      Đối thoại liên tôn vẫn là một chủ đề quan trọng của Giáo hội. Nhân tố chính yếu nào giúp Giáo hội có thể thúc đẩy vấn đề này? 

No comments: