Richard Gailladertz. Ecclesiology for a Global Church. Orbis, 2008.
Chapter 3: A People Called to Communion
Giới thiệu chung. Lời mời gọi hiệp nhất khởi phát đi từ
chính Chúa Giêsu qua lời nguyện trước khi về trời. Phải chăng Chúa đã biết những
người theo Người sẽ không hiệp nhất hay đã có sự bất hòa trong cộng đoàn tiên
khởi nên tác giả Tin Mừng mới đặt lời cầu nguyện lên miệng Chúa Giêsu?
1.
Giáo hội địa phương và giáo hội hoàn vũ
là mối tương quan thống nhất không chỉ
về không gian, thời gian mà còn về tinh thần thiêng liêng. Thánh thể là trung
tâm hiệp nhất của toàn thể giáo hội. Giáo hội như là Thân thể Chúa Giêsu là
hình ảnh của sự hiệp nhất. Henri de Lubac nhận định: Thánh Thể thiết lập Giáo hội
(eucharistia facit ecclesiam), nổi bật
mối dây liên kết giữa thần học và giáo hội học mang tính bí tích. Thống nhất
trong tình hiệp thông được xây dựng trên nền tảng mầu nhiệm Ba Ngôi.
2.
Trong ngàn năm đầu tiên, Giáo hội phát triển trên nền tảng
bí tích và mầu nhiệm ba ngôi. Có lẻ đôi mắt của Chúa đã mờ đi dưới cách
nhìn của con người. Sự phân rẻ thường được nhìn lại qua lăng kính dị giáo và ly
giáo khi có sự khác biệt về tính chính thống. Khởi đầu, Giáo hội hình thành
trong những nền văn hóa, xã hội, chính trị nhỏ lẻ nên chưa có sự phân hóa rõ rệt.
Tiến dần trong sự phát triển, Giáo hội tiến lên trong sự phát triển Đức Tin rộng
khắp cư dân Assyrian đến trên vùng Lưỡng Hà (Mesopotania) nên Giáo hội chịu sự
phân hóa rõ rệt hơn. Vết thương sâu rộng và phức tạp cho đến ngày nay là biến cố
ly giáo Đông Tây.
3.
Phát triển cơ cấu giáo hội nhằm phục vụ
sự hiệp thông của các Giáo hội. Synod là dấu hiệu hiệp thông giữa các giáo hội, là sự ghi nhận vị
trí mục tử của Giám mục ở giáo hội địa phương và Ngài cũng có trách nhiệm trong
giáo hội hoàn vũ. Công đồng chung là sự hiệp thông lớn hơn các synod trong khu
vực, ban đầu thường được triệu tập bởi Đế Vương nhằm giải quyết vấn đề liên
quan đến giáo hội toàn cầu.
Sự phát triển song song giữa quyền giáo
phụ và quyền công đồng gây ra nhiều tranh cãi. Các tòa thượng phụ lớn như Rome,
Antioch, Alexandria, Constantinople đóng vai trò chủ chốt trong ngàn năm đầu của
Giáo hội. Trong khi đó, Giáo hội Rome ghi nhận Giám Mục của mình là người kế vị
thánh Phêrô và là đầu của toàn thể các tông đồ. Quyền tối thượng của Giáo Hoàng
được phát triển và được nhìn nhận rộng rãi ở giáo hội Tây Phương, trong khi Tây
Phương ghi nhận quyền của các Thượng phụ và liên hệ với quyền của Đế Vương.
Trên thực tế ngàn năm đầu tiên, quyền Giáo hoàng hay Tòa Thánh rất mờ nhạt và
có sự nhập nhằng giữa thần quyền và thế quyền.
4.
Cuộc cải cách tôn giáo thế kỷ
16 của phòng trào thệ phản, cùng với sự không khoan nhượng cách tai hại của các
Giáo hoàng, đã khiến cộng đồng Kitô hữu phải cố gắng hơn 4 thế kỷ sau để sữa chữa.
Nền tảng cho sự hiệp nhất là đức tin vào Đức Giêsu Kitô qua việc đáp lại Lời
Chúa, chứ không phải là một cơ cấu phẩm trật. Những thế kỷ sau CĐ Trent, Giáo hội
học của GH Công Giáo Rôma nhấn mạnh nhiều đến khía cạnh hộ giáo. Công đồng
Vatican II có nhiều điểm nhìn nhận đúng đắn hơn về giáo hội. Giáo hội là dân mới của Thiên Chúa, bí tích
của ơn cưu độ, dân của Đấng Mesia, và Giáo hội lữ hành. Sự hiệp thông vẫn
là nền tảng cho việc tiếp cận Kinh Thánh và truyền thống qua các giáo phụ. Luật
yêu thương giúp nhìn nhận mọi người đều là dân Thiên Chúa. Giáo hội là dấu hiệu
bề ngoài ban ơn cứu độ bên trong nhờ Chúa Giêsu Kitô.
5.
Công đồng không chỉ dừng
lại ở việc luận bàn mối tương quan giữa giáo hội địa phương và hoàn vũ, nhưng
còn nhắm đến phong trào đại kết. Ý
thức tình trạng chia rẽ gây trở ngại lớn cho việc truyền giáo, phong trào đại kết
đã được khởi xướng giữa các Kitô hữu vì cùng niềm tin vào một Đức Kitô, cùng chịu
một phép rửa, và đang buộc phải đối phó với thế giới vô thần, duy vật, đối nghịch
với phúc âm Đức Kitô, các kitô hữu không thể không đau lòng nhìn cảnh chia rẽ
và mong sớm thấy sự hợp nhất. Hầu hết các cuộc tranh luận về vấn đề đại kết dựa
trên hai văn kiện: sắc lệnh về đại kết (Unitatis Redintegratio) và hiến chế tín
lý về giáo hội (Lumen Gentium)
6.
Đại kết trở thành một
trong những tâm điểm đem lại sự hiệp nhất và hòa bình. Ngày 25-11-1959 ĐGH
Phaolô XXIII ngõ lời mời gọi các tôn giáo khác tham gia vào Công Đồng (CĐ) như
là ngày hội của ân sủng và tình anh em. CĐ cho rằng những người ngoài Giáo hội
có thể được cứu độ và chính họ là phương tiện của sự cứu độ. Còn những ai đã chịu
phép rửa đều liên kết với Giáo hội. (LG 15). Bất cứ ở đâu Lời Chúa được công bố,
các bí tích được cử hành và các tín hữu theo Đức KITÔ thì ở đó là Hội Thánh của
Đức Giêsu Kitô. (Pio IX). Hội nghị công đồng các giáo hội thế giới diễn ra tại
Nairobi năm 1975 cho rằng: “họ trở nên một
khi họ tuyên xưng Lời Chúa của Đức Kitô và và phục vụ thế giới.” Hội nghị
công đồng các giáo hội thế giới diễn ra tại Canberra năm 1991 cho rằng: “Mục tiêu của sự tìm kiếm về sự hiệp thông
tròn đầy là khi mọi người nhận ra nhau trong sự thánh thiện, duy nhất và tông
truyền.”
7.
Hiệp nhất trong
Giáo hội Hoàn vũ qua các Giáo hội địa phương. Giáo hội như là
một sự hiệp nhất toàn cầu của các GH địa phương. Theo Karh Rahner: CĐ Vatican
II đánh dấu một bước ngoặt của sự khám phá của GH: GH – thế giới. Đó là GH xem
Giáo hội địa phương như là nơi hiện diện của Giáo hội hoàn vũ: Lời Chúa được
công bố, đón nhận và đi ra. Kasper – Giáo hội hoàn vũ không phải là một sự trừu
tượng nhưng là một Giáo hội địa phương ở Giêrusalem. Vào ngày Lễ Hiện Xuống,
Giáo hội hoàn vũ và địa phương đã xuất hiện như là một dấu hiệu thực sự.
Ratzinger: khẳng định về sự ưu thế của Giáo hội hoàn vũ. Giáo hội địa phương và
Giáo hội hoàn vũ có thể đưa ra một nền tảng rõ ràng về một GH Công giáo tròn đầy.
Trong khi GH ở Nam Mỹ Latin nói về TH giải phóng và nhấn mạnh về “dấu chỉ thời
đại”, thì một cuộc hội nghị của các GM châu Á đã đề xuất về vấn đề canh tân GH
trong việc rao giảng Lời Chúa. Việc đầu tiên là tập trung vào công việc của
chúng ta về truyền giáo là xây dựng một GH địa phương thực sự. Mỗi GH địa
phương là món quà về văn hóa vùng miền. Sự giải phóng và hội nhập văn hóa là
chiều kích không thể tách rời trong sứ mạng của GH. Trong đó, GH địa phương
không phải là một cộng đoàn riêng biệt, nhưng là tìm kiếm sự hiệp thông với tất
cả các GH khác: tuyên xưng một đức tin, chia sẻ một Thần Khí và sự sống bí tích
trong một cách đặc biệt với GH hoàn vũ.
8.
Cộng đoàn Giáo Hội
Cơ Bản
(BECs) lần đầu tiên xuất hiện ở Brazil những năm của thập niên 50. Hiếm khi có
các linh mục hiện diện trong các cuộc họp cộng đoàn, vì thế mà không phải lúc
nào cũng cử hành các bí tích trong các cuộc họp, thường thì người ta quy tụ
nhau đọc Kinh Thánh và phản tỉnh từ đoạn Kinh Thánh đó. Theo Carlos Mester, các
cộng đoàn đọc Kinh Thánh dựa vào bối cảnh lúc bấy giờ và xem nó như một buổi cử
hành phụng vụ. Điều này giúp họ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa giữa
các cộng đoàn và cũng nhận ra sự vắng mặt của Thiên Chúa và ý thức về bối cảnh
xã hội lúc này, thường mang nét đặc trưng về sự bất công rõ rệt, sự đàn áp và
đi ngược lại với thánh ý của Thiên Chúa nơi họ. Các nhà thần học giải phóng đã
nhấn mạnh đến ý nghĩa về một giáo hội địa phương thực sự nơi các cộng đoàn này,
khẳng định rằng họ xứng đáng có danh hiệu “giáo hội địa phương”. Vào năm 1986,
một linh mục người Đức phục vụ ở Nam Phi, tên là Lumko, ngài đã phát triển một
mô hình để giúp các giáo hội địa phương tại đó từ mẫu thức “cung cấp” sang mẫu
thức “một cộng đoàn của nhiều cộng đoàn”, những nơi có nhiều giáo xứ lớn thì tổ
chức các nhóm BECs, mỗi nhóm này sẽ được dẫn dắt bởi một đội các thừa tác viên
giáo dân. Các nhóm này sẽ được quy tụ chung với nhau tham dự cử hành Bí tích
thánh thể vào ngày Chúa Nhật. Tùy vào bối cảnh xã hội của từng khu vực mà hình
thành nên các giáo hội địa phương thích ứng với văn hóa và truyền thống của nơi
đó. Như ở Châu Mỹ Latin thì mang năng văn hóa bộ tộc và gia đình.
Tra vấn – Phản tỉnh
1. Ly giáo và dị giáo là do khác biệt quan điểm hay do
chính sự tranh dành quyền lực ẩn đằng sau những giáo thuyết?
2. Việc kết án người vô thần, cụ thể như những người cộng
sản vô thần ở Việt Nam có phải là một chủ trương đúng đắn và hợp lý chăng?
3. Nên nhìn nhận lại vấn đề truyền giáo ở Á Châu như thế
nào khi dân số đông mà người biết Chúa còn rất giới hạn? Phải chăng giáo hội địa
phương còn nặng về cơ cấu mà bỏ qua tinh thần phát triển đời sống con người?
4. Đối thoại liên tôn vẫn là một chủ đề quan trọng của
Giáo hội. Nhân tố chính yếu nào giúp Giáo hội có thể thúc đẩy vấn đề này?
No comments:
Post a Comment