Một lời Thánh Vịnh ca vang: Lạy Chúa, “Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8, 5). Quả thật, thân phận con người là tro bụi mà Thiên Chúa đã ban cho phẩm giá cao quý là hình ảnh hay họa ảnh của Thiên Chúa. Giữa con người với nhau, chúng ta thường đưa ra những bản hợp đồng, những cam kết hay những giao ước. Con người sử dụng hợp đồng làm văn bản khi giao dịch buôn bán và có giá trị pháp lý. Một hợp đồng thường quan trọng nội dung hơn là đối tượng kí kết. Những cam kết thì thường đặt niềm tin làm trung tâm vì xây dựng trên mối tương quan của hai người tham dự cam kết. Có thể xem vượt trội hơn, giao ước mang đậm tính thiêng liêng với vấn đề quan trọng liên quan đến sự sống như giao ước hôn nhân hay giao ước trở thành tu sĩ, thành Kitô hữu. Trong mọi giao ước, Thiên Chúa luôn nắm giữ một vị trí quan trọng vì nếu hôn nhân là luật Chúa không được phân ly thì việc khấn hứa hay rửa tội cũng là bí tích Thiên Chúa mang tính vĩnh cửu. Câu hỏi đưa ra để tra vấn là tại sao Thiên Chúa là Đấng Toàn năng mà cho con người có một sự tự do lựa chọn kí kết giao ước? Phải chăng câu trả lời nằm ở ân sủng hay tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người. Một trích đoạn trong Sáng Thế khi Thiên Chúa tỏ hiện ra với tổ phụ Abraham cũng một phần đề cập một phần nào đó câu trả lời cho câu hỏi này.
Trong Ngũ thư, Sách Sáng Thế là cuốn sách đầu tiên được chia thành hai phần cơ bản: (1) 11 chương đầu được coi như phần dẫn vào lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa nhờ dân Israel: công trình sáng tạo thế giới và con người, tội nguyên tổ, hậu quả của tội và sự lan tràn của nó, lụt đại Hồng thủy, loài người lại sinh sôi nảy nở, chuyển dần trình thuật về ông Apraham, (2) các chương còn lại (12-50) trình bày về lịch sử các tổ phụ: câu chuyện của Apraham, Isaac, Jacob, Joseph.[1] Theo cách phân chia trên, trích đoạn thuộc phần thứ hai của cuốn sách và cụ thể hơn là thuộc câu chuyện của tổ phụ Apraham[2]. “Giao ước và phép cắt bì” (St 17) là câu chuyện tiếp liền sau đoạn “Lời hứa và Giao ước giữa Thiên Chúa và Apram” (St 15) và “Ông Ishmael chào đời” (St 16). Câu chuyện tiếp nối sau trích đoạn là chương 18 với chủ đề “người con giao ước của Abraham và Sarah” và “Ông Apraham can thiệp cho thành Sodom”[3]. Trong trình thuật thì tổ phụ Abraham xuất hiện như một người đặt niềm tin trọn vẹn vẹn vào Thiên Chúa (cha của kẻ tin). Dù ông nhiều lần dựa vào sự khôn ngoan tầm thường của cá nhân ông (nói nửa sự thật về vợ mình (St 12, 13; 20, 2)) hay đôi lần than trách (St 15, 2-3)[4] nhưng Thiên Chúa đã luôn gìn giữ và vạch định kế hoạch cứu độ của Người ngang qua cuộc đời ông vì ông có lòng tin. Đỉnh điểm lòng tin của ông là việc sẳn sàng ra tay sát tế Issaac, người con của giao ước. Vì Đức Tin của ông Abraham mà Thiên Chúa cho ông dự phần vào kế hoạch Cứu độ của Người khi thực hiện giao ước ban cho ông một dòng dõi đông vô kể và chiếm hữu Đất thánh làm gia nghiệp. Thiên Chúa đã chúc phúc cho ông và nhờ ông mà muôn dân được chúc phúc (St 12, 2-3).
Trong giới hạn đoạn trích, ông Abram được đặt trong bối cảnh là đã già vì ông đã 99 tuổi. Hoàn cảnh trước đó, ông đã rời bỏ quê hương, họ hàng và gia đình (ngay cả vị cha già) để bước theo tiếng Thiên Chúa mời gọi dù tất cả chỉ nằm trong lời hứa, đây là dấu chỉ Đức tin với tâm tình phó thác. Hơn nữa, trong thời điểm này, Abram chỉ mới có một con trai là ông Ishmael, vốn không phải là con của bà Sarai nhưng Chúa lại hứa ban một dòng dõi đông đúc qua bà tổ mẫu này. Trong một cuộc thần hiện, bằng cách sử dụng ngôn ngữ như nhân[5] của tác giả Kinh Thánh, Thiên Chúa đã tự nhận mình là “Thiên Chúa Toàn Năng” (El Shaddai) (St 17, 1). Danh xưng này của Thiên Chúa được sử dụng ở đây như là lần đầu tiên trong Cựu Ước và tái sử dụng khi Người hiện ra và nói chuyện với ông Jacob (St 35, 11). Sau này, ông Isaac đã sử dụng danh xưng này mà chúc lành cho Jacob trước khi ông được sai đi đến nhà ông Laban (St 28, 3) và chính Jacob cũng dùng danh này mà chúc lành cho Benjamin trước khi ông này cùng các anh em của ông sang Ai Cập (St 43, 14). Trong Xuất hành, chính Thiên Chúa đã tự khẳng định đây không phải là danh thật sự của Người khi phán cùng Moses rằng: “Ta đã hiện ra với Abraham, Isaac và Jacob với tư cách là Thiên Chúa Toàn Năng, nhưng Ta đã không cho họ biết danh của Ta là Ðức Chúa.” (Xh 6, 3). Danh xưng này đã không được sử dụng nhiều trong Cựu Ước nhưng nó xuất hiện trở lại trong Tân Ước, đặc biệt là sách Khải huyền khi đề cập đến sự hiện hữu vĩnh hằng ("Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Đấng hiện có và đã có) (Kh 11, 17), vương quyền (“đã sử dụng quyền năng mạnh mẽ, và lên ngôi hiển trị”) (Kh 15, 3), sự công minh của Thiên Chúa (“những lời Ngài phán quyết đều chân thật công minh”). (Kh16, 7). Như vậy, trong Cựu Ước, danh xưng được xác nhận như một tư cách của Thiên Chúa được hiểu như một trong những tiếng gọi Đấng Tối Cao của dân Do Thái khi Thiên Chúa hiện ra với các tổ phụ. Dang xưng này thường liên quan đến việc hứa ban một dòng dõi đông đúc và tái khẳng định vị trí tổ phụ trong Cựu ước. Về phía các tổ phụ, danh này được sử dụng để chúc phúc bình an cho con cái và dòng dõi nhất là trong những cuộc ra đi mang nhiều rũi ro. Với tác giả Tân Ước, danh xưng này như là sự hiện hữu vĩnh hằng, vương quyền, sự công minh của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở đây là một Đấng Uy Quyền vượt trên hết các trật tự tự nhiên. Vậy tại sao Thiên Chúa cao cả lại hạ mình kí giao ước với con người?
Khi Thiên Chúa hiện ra, Ngài đưa ra lời đề nghị như một mệnh lệnh (“phán”) là ông Abram hãy sống và trở nên hoàn thiện trong sự hiện diện của Thiên Chúa, mỗi ngày trong đời ông sẽ bước đi trước mặt Người. Một trong những biểu hiện đáp lại lời mời gọi này là tiếp đón khách lạ[6] (có thể đây cũng là lý do ông Lot được cứu vì đã tiếp đón “khách lạ” (St 19)). Hơn nữa, Thiên Chúa lại ngỏ lời về một giao ước và hứa ban “Ta sẽ cho ngươi trở nên đông, thật đông” (St 17, 2). Cùng lời hứa ban làm cha của vô số dân tộc, Thiên Chúa đã đổi tên cho ông Abram (cha đáng kính) thành Abraham (cha của đông đảo dân tộc): “Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Abraham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc” (St 17, 5). Ở đây, việc đổi tên không đồng nghĩa với việc thay đổi tính cách hay nhân cách nhưng là một dấu hiệu nhận biết cho một giai đoạn mới trong kế hoạch của Thiên Chúa.[7] Tương tự với trường hợp của bà Sarai (cao quý, hay tranh cãi) được Thiên Chúa đổi tên thành Sarah (bà chúa, tổ mẫu các vua): Sarai, vợ ngươi, ngươi không được gọi tên là Sarai nữa, nhưng tên nó sẽ là Sarah. (St 17, 15). Có lẻ tổ mẫu đã rất vui khi được đổi tên từ một tên có một ý nghĩa hay tranh cãi thành tên có ý nghĩa tổ mẫu của nhiều vua chúa. Vượt trên ý nghĩa đó, Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện giao ước của Người khi cho người đàn bà son sẻ ở tuổi về già mang thai và sinh hạ một con trai. Chính từ người con giao ước đó mà kế hoạch của Thiên Chúa được thực hiện theo chiều dài lịch sử ơn cứu độ trên phương diện thần học. Cũng từ đây, một tổ phụ quan trọng đã xuất hiện và cũng được Thiên Chúa đổi tên từ Jacob trở thành Israel: "Tên ngươi là Jacob nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Jacob nữa, mà tên ngươi sẽ là Israel.” (St 35, 10). Từ đó, kế hoạch của Thiên Chúa càng thêm rõ ràng qua Israel với 12 chi tộc xuất phát từ ông. Qua đó, Thiên Chúa đã vẽ đường thẳng từ những đường cong của con người khi thay đổi sự việc ông Joseph bị các anh bán sang Ai Cập thành người đầu tiên vào đất đó để cứu Israel khỏi nạn đói. Trong đó, Thiên Chúa tiếp tục công trình cứu độ của Người khi không trực tiếp đổi tên nhưng thông qua “Pharaoh đặt tên cho ông Joseph là Zephenath-paneah” (St 41, 45). Cũng như trong Cựu Ước thì trong Tân Ước, Mẹ Maria đã được đổi tên là Đấng đầy ân sủng: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1, 28) khi sứ thần chào mẹ. Kể từ đây, cuộc đời cô trinh nữ Maria không còn diễn ra bình thường như mọi ngày nữa nhưng là cuộc sống của Đấng đầy ân sủng, người mang trong mình Con Thiên Chúa. Tiếng Fiat – Xin vâng – của mẹ đã khởi đầu cho công trình cứu độ cuối cùng của Thiên Chúa qua biến cố Nhập thể, trãi qua Cuộc Thương Khó, Chịu Chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô. Dự phần vào trong công trình cứu chuộc này và chuẩn bị cho Hội Thánh về sau, chính Chúa Giêsu cũng đã đổi tên cho một người trong lần đầu gặp mặt: “Anh là Simon, con ông John, anh sẽ được gọi là Cephas’” (tức là Phêrô) (Ga 1, 42) và Người tỏ cho ông biết vị trí quan trọng của ông khi nói cùng ông “Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.” (Mt 16, 18). Tất cả nhân vật khi được đổi tên được mời gọi tham dự vào giao ước cùng với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc của Người. Mỗi nhân vật không cần phải thay đổi nhân cách hay tính cách mà nhận định rõ ràng tương quan với Chúa và với mọi người chung quanh. Cũng thế, Abraham không chỉ là cha của Isaac nhưng sẽ trở thành tổ phụ của muôn dân và nhiều vua chúa sẽ xuất phát từ ông. Ông đã đáp lại tiếng Chúa và tự nguyện phụ thuộc kí giao ước với Thiên Chúa. Liệu rằng chính các Kitô hữu cũng đã được đổi tên khi chịu phép Rửa tội khi chấp nhận giao ước trở thành con cái Thiên Chúa?
Trở lại đoạn Kinh Thánh, giao ước ở đây (St 17) xem ra trùng lập với giao ước đã lập trước đó (St 15). Thật ra đây, giao ước không phải chỉ đơn thuần được làm mới mà nó hoàn thiện giao ước trước đó. Nếu giao ước trước dừng lại ở lời hứa ban dòng dõi như sao trên trời (St 15, 5) dựa vào lòng tin của Abram và giao ước về giới hạn lãnh thổ (đất hứa làm gia nghiệp) sau hình thức toàn thiêu[8] thì nay Thiên Chúa cam kết với tính vĩnh cửu của Người và ông Abram cùng dòng dõi ông. Một giao ước được trình bày rõ ràng về hai bên tham dự trong giao ước, phần Thiên Chúa với những điểm (1) đổi tên Abram thành Abraham với ý nghĩa cha của muôn dân; (2) vua chúa sẽ xuất phát từ ông với dự phần của bà Sarai; (3) giao ước vĩnh cữu qua mọi thế hệ; (4) ban đất Canaan làm gia nghiệp; và cuối cùng (5) nhấn mạnh “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng” (St 17, 4-8). Về phần của Abraham và con cháu: (1) chịu phép cắt bì (ghi dấu trên xác thịt) với các quy tắc: thời gian là 8 ngày sau khi sinh, đối tượng là tất cả con trai trong dòng dõi kể cả nô lệ thuộc quyền sở hữu (sinh trong nhà hay mua bằng bạc). Tất cả đàn ông không chịu cắt bì là phá hủy giao ước và bị loại trừ. Tại đây, một dấu hiệu giao ước được đưa ra và nó không phải là dấu hiệu giao ước lần đầu tiên được đề cập đến. Theo lịch sử cứu độ trước đó, Thiên Chúa đã nhắc đến dấu hiệu giao ước của Ngài với con người. Đó là trong trường hợp giao ước với ông Noah trước đó khi Thiên Chúa hứa sẽ không tiêu diệt con người bằng cơn đại hồng thủy qua lời phán: “Ðây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: Ta gác cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất.” (St 9, 12-13). Tương tự như thế, luật giữ ngày Sabbath cũng trở thành một dấu hiệu giao ước khi Thiên Chúa phán: "… các ngươi sẽ giữ các ngày Sabbath của Ta, bởi vì đó là một dấu hiệu giữa Ta và con cái các ngươi qua mọi thế hệ, …. Ðó là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Israel; ..." (Xh 31, 13-17) và được nhắc lại: “Ta cũng ban cho chúng các ngày Sabbath của Ta làm dấu chỉ giữa Ta với chúng, … Hãy thánh hiến các ngày Sabbath của Ta; những ngày ấy phải là dấu hiệu giữa Ta với các ngươi …” (Ed 20, 12-20). Như thế, dấu hiệu giao ước không quan trọng bằng mối tương quan giữa hai người giữ giao ước vì ít nhất ở đây cũng đã nêu ra được 3 dấu chỉ để giữ trọn giữa ước Thiên Chúa và dân tôn thờ Người.
Phép cắt bì theo nghĩa đen là “cắt xung quanh”, đây là việc cắt bao qui đầu được thực hiện trong dân Israel và trong xã hội hiện nay.[9] Nó khởi đi từ giao ước giữa Thiên Chúa và ông Abraham khi được thi hành lần đầu tiên khi ông Abraham 99 tuổi, ông Ishmael 13 tuổi. Tất cả các đối tượng được ghi trong giao ước đã chịu phép cắt bì cùng với ông Abraham và con trai Ishmael (St 17, 23-27). Để giữ cho giao ước được vĩnh cửu với dòng dõi mình, ông Abraham cắt bì cho ông Isaac lúc 8 ngày sau sinh (St 21, 4). Đây cũng được xem như là trường hợp đầu tiên được cắt bì theo đúng nguyên tắc được đưa ra là 8 ngày sau sinh. Sau này, để xứng đáng đi vào đất hứa, ông Joshua đã cắt bì cho toàn dân để tránh các trường hợp chưa được cắt bì trong sa mạc (Gs 5, 3). Ngoài ý nghĩa giao ước với Thiên Chúa, việc cắt bì còn được xem là dấu hiệu xứng đáng tham dự lễ Vượt Qua (Xh 12, 44-48). Thế nhưng, việc cắt bì thân xác mà tâm hồn không trong sạch đã được Jeremiah nêu lên việc Thiên Chúa sẽ hạch tội “mọi kẻ cắt bì mà kể như không” hay “dân không cắt bì trong lòng” (Gr 9, 24-25). Kinh Thánh Cựu ước cũng đã ghi nhận một thỏa hiệp. Trong đó, các con trai ông Jacob đã dùng việc cắt bì mà lừa dối Hamor và Shechem. Họ đã lợi dụng việc cắt bì như là một dấu hiệu hòa hợp giữa hai dân thành một rồi sau đó tru diệt toàn thể đàn ông thành này vì sau khi cắt bì mọi đàn ông trong thành đang còn bị đau (St 34). Nếu thỏa thuận thành công thì đây có thể là bằng chứng cho hôn nhân khác đạo hợp pháp đầu tiên trong Cựu Ước. Từ đây có thể ghi nhận, dân Chúa không chỉ giới hạn là dân Israel mà tất cả những ai chịu phép cắt bì. Với thực tế đời sống hôn nhân trong Giáo hội hiện nay, người không phải Kitô hữu vẫn có thể kết hôn với người Kitô hữu và ơn cứu độ được ban cho tất cả mọi người dù không chịu phép rửa tội như là một dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa. Trong Tân Ước, thánh Phêrô cùng những người đã chịu cắt bì đã chứng kiến cảnh Thiên Chúa ban Thánh Thần cho dân ngoại và Ngài đã ban phép rửa tội cho những người dân ngoại đầu tiên (Cv 10, 44-48). Mặc dù thánh Phêrô bị giới cắt bì chỉ trích (Cv 11, 2) và họ đã đẩy lên đỉnh điểm khi rao giảng "nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Moses, thì anh em không thể được cứu độ." (Cv 15, 1). Cũng thế, chính thánh Phaolô đã có quyết định dung hòa khi nể người Hebrew (Do Thái) khi đem ông Timothy đi chịu phép cắt bì (Cv 16, 3). Thế nhưng, quyết định cuối cùng của cuộc thỏa luận của các tông đồ được xem như Công Đồng Jerusalem là dấu chỉ giao ước qua phép cắt bì không còn quan trọng. Các tông đồ chỉ giới hạn cho Kitô hữu xuất phát từ dân ngoại: “kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm” (Cv 15, 29). Quả vậy, dân riêng của Thiên Chúa thời Cựu Ước hay các Kitô hữu thời Tân Ước có thể giữ giao ước với Thiên Chúa với nhiều dấu chỉ chứ không phải giới hạn ở phép cắt bì.
Đọc lại giao ước kiện toàn ở chương 17 sách Sáng Thế, Thiên Chúa xuất hiện với một danh xưng mới là Thiên Chúa Toàn Năng, có lẻ chính Người cũng như đã đổi tên để xứng hợp với việc đổi tên của Abraham và Sarah để ghi dấu một tương quan mới (trước đó Hagar đã gọi Thiên Chúa là “Đấng thấy tôi” (St 16, 13)[10] hay lưu dấu việc bắt đầu kiện toàn giao ước. Thiên Chúa là Chúa mà đã hạ mình ngỏ lời với nhân loại và đã kí kết một giao ước mà phần Người chiếm phần nhiều hơn. Người chỉ yêu cầu con người mà đại diện là tổ phụ Abraham và dòng dõi cùng người trong nhà ông một việc duy nhất là phép cắt bì. Mặc cho dân Israel đã quá quan trọng dấu chỉ trên thân xác mà đôi khi đã quên mất dấu chỉ trong tâm hồn, Thiên Chúa đã luôn giữ giao ước nhưng con người thì lại không. Trong đời sống hôn nhân hay trong đời sống tu trì, đôi khi chỉ có một bên giữ trọn giao ước, còn một bên thì quá coi nhẹ giao ước đó. Lịch sử cứu độ cũng là một điệp khúc của việc bẻ gảy giao ước, kêu cầu và được Chúa đoái thương, tuân giữ giao ước. Thiên Chúa luôn là Đấng Trung tín luôn cảm thông cho phận hèn của con cái Người. Người cũng là Đấng Thương Xót đón nhận tất cả các người con sa ngã trở về cùng Người. Với tình yêu nhưng không, Thiên Chúa mời gọi tất cả nhân loại tham dự vào công trình cứu độ và lãnh nhận ơn cứu độ. Thiên Chúa không giới hạn con người trong việc đổi tên trên thực tế hay một dấu chỉ giao ước trên thân xác. Người mời gọi mỗi người hãy đổi tên trong tâm hồn cũng như cắt bì tâm hồn như hồn như là một dấu chỉ thiêng liêng để xứng đáng làm hình ảnh hay họa ảnh của Người cũng như xứng đáng tham dự vào giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Cũng như Israel vẫn được gọi là Jacob sau khi đã được đổi tên vì theo Thánh Augusitine, Israel hướng về đời sau, nơi chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt.[11]
Xin kết thúc cùng câu Thánh Vịnh: “Lạy ÐỨC CHÚA là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu!” (Tv 8, 10).
Sách tham khảo
Alister E. McGrath – Martin H. Manser (eds), The NIV Thematic Reference Bible (New International Version), (ZondervanPublishingHouse: Grand Rapids, Michigan 49530, USA).
Cathechism of the Catholic Church. (St Paul’s: Home bush, NSW 2140, 1994).
Brown Raymond E., Fritzmeyer Joseph A. (eds), The New Jerome Biblical Commentary (London, 1990).
Lawrence Boadt, Reading the Old Testament – An Introduction, (Paulist Press: New York).
Nguyễn Ngọc Rao. OP, Tìm Hiểu Ngũ Thư (Lưu Hành Nội Bộ: 1998)
Thomas C. Oden – Mark Sheridan (eds), Ancient Christian Commentary on Scripture – Old Testament II (Genesis 12-50), (InterVarsity Press: Downers Grove, Illinois).
Walter Brueggemann – Walter C. Kaiser, (Authors), The New Interpreter's Bible: Genesis to Leviticus (Volume 1), (September 1, 1994).
[1] Nguyễn Ngọc Rao. OP, Tìm Hiểu Ngũ Thư (Lưu Hành Nội Bộ: 1998)
[2] Các tên gọi của nhân vật và nơi chốn được dùng theo chuẩn Anh ngữ đối với các từ mang tính phiên âm (Ap-ra-ham), trích dẫn Kinh Thánh theo chữ viết tắt và những danh từ quen sử dụng dùng theo chuẩn Việt ngữ (Ai Cập).
[3] Tên các đoạn và trích đoạn theo các bản văn: Nhóm Phiên dịch các giờ kinh Phụng Vụ. Kinh Thánh Trọn Bộ. (NXB Tôn Giáo: Hà Nội, 2011) và NRSV, Holy Bible, (Theological Publications In India: Bangalore, 2007)
[4] Lawrence Boadt, Reading the Old Testament – An Introduction, (Paulist Press: New York), 141.
[5] Dùng ngôn ngữ đặc biệt là các hành động của con người (hiện ra (xuất hiện), phán, đặt giao ước, …) để gán cho Thiên Chúa, một cách hiểu như phép nhân hóa.
[6] Cathechism of the Catholic Church. (St Paul’s: Home bush, NSW 2140, 1994). No 2571.
[7] Walter Brueggemann – Walter C. Kaiser, (Authors), The New Interpreter's Bible: Genesis to Leviticus (Volume 1), (September 1, 1994), 459.
[8] Đây là cách thức kí giao ước của dân cư vùng Cận Đông với ngụ ý ai phản bội giao ước sẽ chung số phận với những vật toàn thiêu.
[9] Alister E. McGrath – Martin H. Manser (eds), The NIV Thematic Reference Bible (New International Version), (ZondervanPublishingHouse: Grand Rapids, Michigan 49530, USA), 20.
[10] Walter Brueggemann – Walter C. Kaiser, (Authors), The New Interpreter's Bible: Genesis to Leviticus (Volume 1), (September 1, 1994), 460.
[11] Thomas C. Oden – Mark Sheridan (eds), Ancient Christian Commentary on Scripture – Old Testament II (Genesis 12-50), (InterVarsity Press: Downers Grove, Illinois), 52.
1 comment:
“ Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8, 5)
Lời Thánh Vịnh mở đầu cho những suy tư về phận người, vốn vẫn được ví như “bụi tro huyền nhiệm”. Là bụi tro, như căn tính vốn là, còn huyền nhiệm, vì được trao ban phẩm giá cao quý và được tạo nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Đó cũng là giao ước đầu tiên được ký kết trong lịch sử nhân loại, giữa Thiên Chúa và con người, một giao ước của tình yêu.
Từ xưa, khởi đi từ công xã nguyên thủy (thị tộc), những cam kết giữa con người với nhau đã được hình thành qua việc phân công công việc (người săn bắt, kẻ hái lượm) và thụ hưởng các chiến lợi phẩm (tất cả chia đều, không tích cóp của cải, lương thực riêng). Theo quá trình phát triển của xã hội loài người, các thỏa thuận, giao kèo cũng được phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau, cho đến ngày nay là các hợp đồng văn bản khi giao dịch buôn bán và những cam kết có giá trị pháp lý. Sự khác biệt lớn nhất giữa cam kết và hợp đồng, chính là niềm tin. Hợp đồng được xây dựng dựa theo tính pháp lý của vụ việc, còn cam kết được tạo nên dựa trên mối tương quan của hai bên tham dự. Ngoài ra, khi cam kết được phát triển lên một bậc khác, vượt trội hơn, sẽ hình thành giao ước. Ở phạm vi bài viết này, xin bàn về những giao ước mang đậm tính thiêng liêng với các vấn đề liên quan đến sự sống như giao ước hôn nhân, giao ước trở thành Kitô hữu.
Trong mọi giao ước, Thiên Chúa luôn nắm giữ một vị trí quan trọng, và có tính vĩnh cửu, “từ đời nọ trải qua đời kia”. Câu hỏi đưa ra để tra vấn là tại sao Thiên Chúa là Đấng Toàn năng mà cho con người có một sự tự do lựa chọn kí kết giao ước? Phải chăng, câu trả lời nằm ở ân sủng hay tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người?
Post a Comment