Siêu hình học là “nghiên cứu về hữu thể xét như hữu thể.”[1]
Trong qua trình nghiên cứu này, sau khi đã tìm hiểu về khái niệm siêu hình học
như là một lịch sử sơ lược về môn này, vấn đề “kinh nghiệm căn bản về hữu thể”
được đặt ra. Xuất hiện trong tiến trình này “cùng với ý niệm hữu thể” thì một
câu hỏi được đặt ra là tại sao có thể nói “chúng ta suy tư dưới ánh sáng của hữu
thể?” Để trả lời cho câu hỏi này, bài viết sẽ lần lượt giải thích về vấn đề cốt
yếu trong câu hỏi, trả lời câu hỏi tại sao và đưa ra một cách thức suy tư dưới
ánh sáng hữu thể như thế nào?
Ánh sáng hữu thể là gì?
Ánh sáng ở đây không hiểu đơn thuần là sự tồn tại vật
lý theo dạng hạt hay sóng. Với ý nghĩa ẩn dụ, ánh sáng được hiểu như là sự soi
chiếu để các vật chất thể hiện nó ra như nó là. Như thế, theo một cách nhìn nào
đó, sự vật xuất hiện và được tri nhận khi có ánh sáng và nếu thiếu vắng ánh
sáng thì sự vật không được thể hiện hay không được tri nhận đúng mực. Điều này
được thể hiện rõ trong ẩn dụ cái hang của Platone. Khi các tù nhân ở trong hang
thì sự vật được tri nhận chỉ là ảo ảnh của những cái bóng. Giả xử, ngọn lửa
trong hang cũng bị dập tắt thì bóng đêm mịt mù với sự thiếu vắng hoàn toàn của
ánh sáng sẽ xuất hiện và mọi thứ được bao trùm với một màu đen tối tăm. Ngược lại,
khi người tù nhân vượt qua hành trình khó khăn để lên khỏi hang thì kết quả đạt
được là sự vật xuất hiện như nó là. Ánh sáng của hữu thể tuyệt đối trong ẩn dụ
này như là mặt trời đã soi chiếu để chúng ta thấy được các sự vật hiện tượng hữu
hạn. Nhưng ý nghĩa ánh sáng hữu thể không dừng lại ở đó, chính trong sự vật khi
xuất hiện như là nó là thì chính nó cũng đã mang “ánh sáng hữu thể”. Chúng ta suy
tư “dưới ánh sáng của hữu/im Lichte des Seins”, cũng
được Heidegger trong Thư về chủ nghĩa nhân bản/Brief über den Humanimus 1946, [2] là chúng ta tri nhận một
thực tại nhưng lưỡng diện theo nghĩa là “có cái gì đó tồn tại”.[3]
Tại sao có thể nói như vậy?
Bởi vì, trong lúc suy tư, chúng ta không thể suy tư về
một cái không gì hay “cái trống rỗng”. Ngay cả trong ẩn dụ đã được đề cập, những
người tù dường như rơi vào tình trạng ‘trống rỗng” khi ngọn đuốc trong hang bị
dập tắt đi. Nhưng ít ra, với nhận thức bình thường, những người tù nhân vẫn nhận
ra một ý niệm về sự tồn tại của một trường hợp thiếu vắng ánh sáng hoàn toàn là
cái gì. Theo một cách hiểu khác, khi chúng ta tìm hiểu về cái hữu thì nó xuất
hiện như là thế được nhìn thấy. Con người với tư cách là chủ tri mở mình ra với
hữu thể theo khía cạnh khách quan, quan điểm nhân vặn luận và nhãn quan lịch sử.
Ngược lại, hữu thể thể hiện chính nó nơi tư duy, không chỉ đơn thuần là ý niệm,
mà như nó là cho tôi.[4]
“Cái gì đó tồn tại” với cấu trúc căn bản, nguyên lý sự hữu (actus esendi) và nguyên
lý định dạng (essentia), mang tính hữu hạn, đa bội và bất tất đã được hợp pháp
hóa và làm cho khả tri.[5]
Cái hữu đã hiện tỏ ra trong sự tri nhận của chúng ta. Sau một loạt các nhận định
về hiện vật trong các chủ thuyết như là tinh thần, vật chất và năng lực, biến dịch
và đời sống, hiện trình, ý muốn, bản thể, chủ thể, đồng thể, Heidegger cũng đã khẳng định “hữu thể soi sáng mọi nơi mà siêu hình học hiện trình sự vật.”[6]
Hơn nữa, giá trị hiển nhiên được đề cập đến “được áp dụng cho tất cả các thực tại
dù là cái có thể hoặc được nghĩ về”. Dù là hình thế (forma) hay những hữu thể
thuộc trí đều phải được nhận thức trong qui chiếu khách quan với sự vật hiện tượng
cụ thể.[7]
Điều được xem xét ở đây là chúng có tồn tại như chúng là hơn là chúng tồn tại
trong hình thức nào. Cũng chính trong thế giới ý niệm của Platone, hữu thể xem
ra tồn tại chỉ là ảo ảnh và trừu tượng nhưng thật ra chúng tồn tại như khẳng định
“hiện hữu thực sự của thực tại đều thiết yếu có tính cách thường tồn”[8]
Chung quy lại, cùng với ý niệm hữu thể là một sự hiện diện thường hằng.
Chúng ta có thể
suy tư dưới ánh sáng này như thế nào?
Đó là trong một
sự “ngẫu nhiên”, người tù được phá bỏ xiềng xích và bắt đầu lần mò với bản chất
muốn tìm hiểu để thỏa mãn “khát vọng” hay chỉ đơn thuần là sự “tò mò”. Từ đó, chúng
ta như người tù được tự do có được “cuộc gặp gỡ ngây thơ” (Husserl) với sự vật
xét như nó là qua nhiều lần “trắc diện”. Điều này có thể không được chúng ta ý
thức đủ nên với hiện tượng luận, Husserl mời gọi chúng ta thực hiện ba bước giảm
trừ (triết học, bản chất, hiện tượng luận) để “trở về với các sự vật”. Để rồi từ
đó, đối tượng với hai đặc tính là bất thấu tính và siêu việt tính của nó sẽ xuất
hiện như nó là và cho chính chúng ta. Trong cách diễn đạt khác, chúng ta tri nhận
sự hữu như nó là theo ý hướng tính với tác động từ hai phía. Trong đó, một điều
không thể phủ nhận là “ánh sáng của hữu thể” đã soi dẫn cho suy tư của chúng
ta.
Tóm lại, có một sự đồng thuận là chúng ta
không thể tri nhận được cái hữu vô hạn bằng tồn tại hữu hạn của chúng ta. Vì thế,
vấn đề suy tư dưới ánh sáng của hữu thể dù đã được giải thích như là một sự tri
nhận “có cái gì đó tồn tại”; đưa ra lý do về thực tại “thực sự tồn tại” trong
thế giới khả nghiệm để trả lời và đề cập đến hiện tượng luận của Hesserl như là
cách thức giải quyết vấn đề thì cũng chưa thể giải quyết vấn đề một cách rốt ráo.
Thế nhưng với bản chất muốn thỏa mãn khát vọng hiểu biết hay yêu mến sự khôn
ngoan và dưới sự soi sáng của cái gọi là “Ipsum Esse Subsistens”, chúng ta tin
tưởng có thể bước đi trên nẻo đường hữu thể. Ví như, Đức Giáo Hoàng danh dự đã
viết “sự hiện hữu của Đức Giêsu trong ánh sáng của Thiên Chúa, sự hiện hữu là
ánh sáng của Người Con”[9]
cũng phần nào gợi hứng cho một suy tư về vấn đề “ánh sáng của hữu thể”.
[1] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu
hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 26.
[2]
ĐẶNG Phùng Quân, Triết học nào cho thế kỷ 21,17/09/2013, http://www.gio-o.com/DangPhungQuanTheKy2127.htm
[3] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu
hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 115.
[4] Sđd, 106
[5] Sđd, 161
[6] Martin Heideger, Tác phẩm triết học, Trần Công Tiến dịch, (NXB ĐH Sư Phạm), 24.
[7] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu
hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 115-116.
[8] Gioan NGUYỄN Ngọc Hải, C.Ss.R, Những nẻo đường hữu thể, phần I (Lưu
hành nội bộ, Sài Gòn 2012), 75.
[9]
Joseph Ratzinger, Đức Giêsu thành Nazareth, phần I, Lm Aug
NGUYỄN Văn Trinh dịch, (NXB Tôn
Giáo), 411.
No comments:
Post a Comment