Tuesday, July 18, 2017

Karl Rahner, một vài tư tưởng về mặc khải

Đức Tin và Mặc Khải được ví von như đôi cánh giúp nâng con người lên với Thiên Chúa. Hai phạm trù này cũng là tâm điểm của nền Thần học Nền tảng sánh vai cùng Thần học Tín lý tạo thành nền Thần học Hệ thống. Xét riêng về phạm trù mặc khải có nội dung tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ với ý nghĩa là cách thông tri (communication) những thông tin có thể được thể hiện rõ ràng qua ngôn ngữ (câu nói, mệnh đề) dần dần được thay thế bằng cách hiểu một cách cơ bản là một Thiên Chúa tự mặc khải.[1] Mặc khải khởi đi từ cách hiểu vén mở bức màn nhưng dần dần trở thành trọng tâm bàn luận để trả lời hay đối thoại với chủ nghĩa duy lý. Hòa vào trong hệ thống tư tưởng thần học, các thần học gia không ngừng lãnh nhận, nghiên cứu và đưa ra những quan điểm thần học khác nhau về mặc khải. Một trong những nhà thần học nổi bật và có sức ảnh hưởng lớn trong nền thần học thế kỉ XX là Karl Rahner. Ông vốn đam mê tra vấn triết học nhưng con đường lý trí lại dẫn đưa về nẻo đường đức tin của thần học. Các tác phẩm của ông bàn về nhiều chủ đề khác nhau của thần học. Bài viết giới hạn trong các tác phẩm The content of faith, Encounters with Silence, The Trinity với những góp nhặt tư tưởng của Karl Rahner khi ông trình bày về nội dung mặc khải.
Trước hết, thuật ngữ siêu nghiệm dễ đưa dẫn người đọc lầm tưởng về nền tảng siêu hình của triết học Kant vốn có sức ảnh hưởng lớn trong hệ thống tư duy xã hội Tây phương. Karen Kilby, một nhà nghiên cứu về Karl Rahner, gợi ý cách hiểu thuật ngữ siêu nghiệm dựa trên hai sự phân biệt. Thứ nhất là sự phân biệt giữa cách sử dụng khác nhau của chính Rahner. Thứ hai là phân biệt giữa những cách sử dụng của Rahner và những người khác sử dụng khi nói về ông. Tựu trung, siêu nghiệm được hiểu trong liên hệ mang đặc tính siêu nghiệm (tính siêu nghiệm của con người, mặc khải siêu nghiệm, kinh nghiệm siêu nghiệm …) và trong việc nghiên cứu thuộc về siêu nghiệm (phương pháp siêu nghiệm, thần học hay triết học siêu nghiệm …). Theo Rahner, tính siêu nghiệm trong mặc khải được trình bày như cái gì đó tồn tại trong chúng ta, giúp chúng ta làm việc và vượt trội trên những giới hạn hơn là một phương pháp nghiên cứu.[2] Tính siêu nghiệm được hiểu như là tấm bảng tồn tại để chữ viết có thể được nhìn thấy, như là ánh sáng để mọi vật được phản chiếu và tri nhận hay như là nước để thủy vật bơi lội. Tính siêu nghiệm hiểu như là nền tảng và có đặc điểm vượt qua giới hạn tri thức bình thức của con người, cũng thế tính siêu nghiệm của Thiên Chúa cũng trỗi vượt hơn lý trí của con người nên cần nhờ đến ân sủng để nâng cấp trí khôn thì con người mới có khả năng tri nhận mặc khải siêu nhiên.
Trong nhiệm vụ truyền giáo của người Kitô hữu hay của Kitô giáo, Karl Rahner mời gọi những người tín hữu nhìn nhận người ngoại giáo như là các Kitô hữu vô danh (anonymous Christians). Để giải thích cho tư tưởng của mình, ông đưa ra thuật nghữ “mặc khải siêu nghiệm” như được bao hàm trong sự trao ban thông qua ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa được minh chứng qua ân sủng.[3] Mặc khải siêu nhiên đề cập đến kinh nghiệm về Thiên Chúa có thể xảy ra bất nơi đâu và cho bất cứ ai. Qua đó, tác giả cho thấy tính phổ quát siêu nghiệm của mặc khải. Quả thật, ơn cứu độ của Thiên Chúa được dành cho tất cả mọi người dù là tín hữu hay vô tín hữu (unbelievers). Sự khác biệt hay mâu thuẩn mang “tính tuyệt đối” (categorical) giữa trong và ngoài Kitô giáo đã được giải quyết theo nghĩa siêu vượt (transcended). Điều này diễn ra là nhờ vào mặc khải siêu nghiệm, được hiểu như là phương thức tự thông tri của Thiên Chúa đến với tất cả mọi người là những hữu thể siêu vượt (transcendent beings) mang trong mình phẩm tính siêu nghiệm. Trong kinh nghiệm về Đức Tin Kitô giáo, chúng ta tri nhận ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa với công trình của Chúa Giêsu Kitô qua mầu nhiệm nhập thể - cuộc đời – khổ nạn – chịu chết – phục sinh của Người. Lẻ dĩ nhiên, ơn cứu độ phổ quát với lòng thương xót vô hạn của Người không thể bị giới hạn ở những ai được gọi là Kitô hữu chính thức qua việc thuộc về giáo hội, qua bí tích rửa tội, qua việc tuyên xưng đức tin, hay qua các nghi thức tế lễ mà còn lan rộng đến các Kitô hữu vô danh vốn được nhìn nhận từ trong thực tế hiện hữu nội tâm của họ.[4] Quả thật, mỗi hữu thể tồn tại đều có tự do dùng lời “xin vâng” để đáp lại Lời Chúa qua mặc khải và đức tin một cách công khai hay bí mật.
Về việc khẳng định mặc khải qua các mệnh đề hay tuyên bố, Karl Rahner tra vấn mặc khải đã “bị đóng lại bởi cái chết của vị tông đồ cuối cùng” thật sự có nghĩa là gì? Ông nhận định rằng, dù xem xét trong tri thức thuần trí lẫn mặc khải siêu nhiên đều không thỏa đáng khi giải thích mệnh đề vừa nêu theo nghĩa khi vị tông đồ cuối cùng qua đời thì để lại một đúc kết đóng khung trong các mệnh đề phác thảo ngiêm túc như là những điều luật hợp pháp trong các bản văn rõ ràng lành mạch, ví tựa như là giáo lý. Chúng vốn tồn tại bất biến nhưng lại không ngừng được dẫn giải, giải thích, hay bình luận. Rahner định nghĩa mặc khải “không là việc thông tri cơ số những mệnh đề xác định, những tóm kết, hay thêm vào đó là những ước muốn bất ngờ và độc đoán hạn hẹp có thể hình dung được.”[5] Với ông, mặc khải là “cuộc hội thoại mang tính lịch sử giữa Thiên Chúa và loài người qua những gì diễn ra và qua việc thông tri vốn liên quan đến công trình của Thiên Chúa và biến cố không ngừng diễn ra.”[6] Kết quả của cuộc đối thoại này là một giới hạn xác định tương đối rõ ràng, giới hạn này trước hết là biến cố và do đó việc thông tri sẽ đạt tới kết quả và đỉnh cao vốn chưa bao giờ được vượt qua. Có thể hiểu, mặc khải là đỉnh cao giúp nâng tầm tri thức con người lên một đỉnh cao mới vốn không thể đạt đến bởi những cách thức thông thường. Mặt khác, Karl Rahner định nghĩa mặc khải là biến cố cứu chuộc (saving happening) mà chỉ nhờ đó và trong đó tồn tại việc thông tri những chân lý. Ông khẳng định lịch sử cứu độ đã không ngừng tiếp diễn đến khi đạt đến cùng đích tối hậu trong Chúa Giêsu Kitô. Người đã tự hiến trọn vẹn chính Người cho thế gian. Trước Chúa Kitô, lịch sử nhân loại chỉ tồn tại những giai đoạn hay thời đại dẫn đưa đến sự chết và sự trống rỗng qua những gì chóng qua, tạm bợ, hay lập đi lập lại hết thời này đến thời kia. Những hệ thống kinh tế, chính trị, tri thức qua các thành bang, quốc gia, các nền văn minh đã mang trong mình sự tiêu vong khi nó được sinh ra vì nó hình thành rồi sụp đổ, hiện tại qua đi trong tương lai. Cũng trong giai đoạn đó, công trình của Thiên Chúa qua sự tỏ lộ chính Người cho thế giới được mở ra. Lịch sử cứu độ ghi nhận trật tự lần lượt hết lần này đến lần khác công trình của Thiên Chúa được thiết lập và thay thế lẫn nhau nhau. Mặc dù thế, cuối cùng Thiên Chúa muốn nói gì cho con người ngoài những lời tức giận hay yêu thương, tất cả dường như chưa rõ ràng. Thế nhưng, thực tế đáng tin cậy nhất cuối cùng cũng được công bố, nó không có thể trở nên lỗi thời hay bị thay thế. Đó là sự hiện diện bền vững và không bị phá bỏ của Thiên Chúa trong thế giới qua sự cứu chuộc, tình yêu, và sự tha thứ. Chính Chúa Kitô đã thông tri cho thế gian sự sâu kín nhất của chính thực tế siêu nhiên và chính cuộc sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế gian đã giải quyết cách triệt để vấn đề lịch sử, sẽ không còn thời đại mới, thời kì mới, hay kế hoạch cứu độ mới. Nói một cách khác, mặc khải đã được đóng lại. Đây là một khẳng định mang tính tích cực chứ không phải tiêu cực vì tất cả được bao hàm và không gì bị loại bỏ trong tiến trình mở ra cho sự hiện diện ẩn tàng của sự sung mản trong Đức Kitô. Không có gì cần được tuyên bố, tất cả đã được làm sáng tỏ nơi Người Con của tình yêu. Chính trong Chúa Kitô, Thiên Chúa và thế gian trở nên một, mãi mãi không lẫn lộn, nhưng mãi mãi không bị chia cắt. [7] Tắt một lời, Rahner khẳng định Chúa Kitô là đỉnh cao và tận cùng của mặc khải. Cuộc hội thoại mang tính lịch sử giữa Thiên Chúa và con người được “đóng lại” theo nghĩa được kiện toàn nơi Người hơn là đóng khung trong các tín điều hay giáo lý vốn tồn tại nơi Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn Quyền. Điều này thể hiện cách thức mang tính phạm trù và đặc biệt của mặc khải được đặt đến đỉnh điểm nơi Chúa Giêsu Kitô.
Trong cách nhìn mặc khải như là tri thức, Karl Rahner gián tiếp đề cập khía cạnh tri thức của mặc khải hay tất cả các loại tri thức thuần tri cũng không thể khỏa lấp hết ước muốn của tâm hồn ông. Ông viết: “Lạy Chúa, ngay giờ này xin hãy hiện diện như sự an ũi của lòng con, giờ đây khi tất cả mọi tri thứ dù là tri thức mặc khải của Người trong ngôn ngữ loài người cũng lặng im chấp nhận thất bại trước ao ước của trái tim con.”[8] Quả thật, Rahner chỉ ra sự khác biệt giữa biết Chúa và biết về Chúa. Đối với ông, ngôn ngữ con người sẽ chỉ ngày một trở nên câm nín trước sự hiện diện của chính Thiên Chúa. Trong mối tương quan với Thiên Chúa như là chính Người thì không còn ngôn ngữ con người, không còn khái niệm cũng như không còn một hình ảnh nào có thể trở thành trung gian. Rahner ghi nhận tất cả những mệnh đề công bố rõ ràng trong bản in (cold print) rằng chính chúng ta không có dính dáng gì với mầu nhiệm Ba Ngôi ngoài trừ việc tri nhận một vài điều “về nó” thông qua mặc khải.[9] Ông xác định việc thông tri thuần khẩu (merely verbal communication) vốn không làm thay đổi mối tương quan thật sự giữa tam vị nhất thể với người tiếp nhận nhưng phương cách này không thể được chọn để giải thích mặc khải về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Một mầu nhiệm gợi ý và bao hàm cách cơ bản nhất của việc thông tri thuộc hữu thể luận chân chính cho con người. Chính Thiên Chúa sẽ trở thành ngôn từ của cuộc sống và tình yêu mang lại niềm hỉ hoan và lấp đầy mọi ngỏ ngách của tâm hồn. Karl Rahner đã thốt lên rằng: “Chính Người là tri thức của con, là ánh sáng và là cuộc sống, là kinh nghiệm và là tình yêu. Người là Thiên Chúa của tri thức duy nhất và vĩnh cửu, là tri thức mang lại niềm hoan hỉ không bao giờ cạn vơi”[10] Quả thật, tri thức đích thực thuộc về ý thức mang tính siêu hình sâu thẳm trong chính nó vốn bao hàm trong mối tương quan có thể ý thức được nhất với những gì được tri nhận. Hiểu mặc khải một cách hời hợt sẽ dễ dẫn đến việc biết về Thiên Chúa hơn là biết chính Thiên Chúa. Lời mời gọi trong việc đối thoại với Thiên Chúa, Đấng tự thông tri cho con người, là tiến trình đi từ cái đầu đến con tim, là đòi hỏi một sự nâng cấp trí khôn để biết được chân lý siêu nhiên tuy không thể được biết nhưng biết được (khả tri).  
Gợi ý từ tác giả Avery Dulles, việc chuyển hướng nguồn gốc tư tưởng theo thời gian như việc kể chuyện qua việc nghiên cứu tiêu thức để phân loại các lý thuyết mặc khải là điều hữu ích để tiếp cận sâu sát hơn các tư tưởng thần học về mặc khải.[11] Theo cách phân loại của Dulles thì tồn tại năm mẫu thức cơ bản: mẫu thức giáo lý (mệnh đề), mẫu thức lịch sử, mẫu thức kinh nghiệm nội tâm, mẫu thức nghịch lý, và mẫu thức tâm thức mới. Sau khi tìm hiểu Karl Rahner với những tóm tắt còn hạn chế, người viết đồng ý với tác giả Avery Dulles khi đặt một vài tư tưởng của Karl Rahner trong mẫu thức nhận thức mới và kinh nghiệm nội tâm. Với nền tảng là con người vốn siêu việt trong chính nội tâm, mẫu thức tâm thức mới định nghĩa mặc khải là hoạt động siêu việt (transcendent) đi vào bên trong tinh thần con người giúp con người có nhận thức đầy đủ hơn.[12] Trong thuật ngữ mặc khải siêu nghiệm, Rahner đã cho thấy một mặt là tính siêu việt và phổ quát của mặc khải qua ân sủng, mặt khác là tính siêu việt của con người, xét như là những hữu thể siêu nghiệm. Tính siêu việt trong mỗi hữu thể là nền tảng cho việc không giới hạn mặc khải, xét như sự giao tiếp, đối thoại giữa Thiên Chúa – một nền tảng sống động, thường hằng và siêu việt – và con người – vốn cũng được ban tặng sự siêu việt bên trong. Từ đó, nhờ có mặc khải mà nhận thức của con người đạt đến một mức độ cao hơn. Xét trong phạm vi Kitô giáo, tín hữu có thể tri nhận được vô tín hữu như là Kitô hữu vô danh, những người có thể lãnh nhận mặc khải và ơn cứu độ qua ân sủng không bờ bến của Thiên Chúa. Một điểm khác để đưa Rahner vào mẫu thức này là sự kiện toàn cho mẫu thức giáo lý (mệnh đề). Đúng như ông đã trình bày, mặc khải không bị đóng khung và khô cứng theo nghĩa mặc khải đã bị đóng lại qua các mệnh đề mặc dù nền tảng của mẫu thức mệnh đề là lời được viết ra là đỉnh cao mới đạt tới đỉnh cao. Mặc khải đóng lại theo nghĩa mở ra cho đỉnh cao là Chúa Giêsu Kitô. Xét về khía cạnh tri thức, Karl Rahner không phủ nhận giá trị của những gì chúng ta biết về Thiên Chúa nhưng mời gọi nhìn nhận mặc khải theo cách nhìn nhận thức mới. Tri thức ở đây là chính Thiên Chúa qua sự hiện diện của người trong thế giới và trong nội tâm cá vị của mỗi người.
Trong một cách nhìn khác, dựa trên nền tảng Thiên Chúa là tinh thần chứ không phải hiện tượng của mẫu thức kinh nghiệm nội tâm, thuật nghữ mặc khải siêu nghiệm cũng đủ để nhận định Karl Rahner thuộc vào mẫu thức này. Bởi lẻ, mặc khải ban đầu xảy ra trong một kinh nghiệm thần bí của việc kết hợp với Thiên Chúa. Nói một cách đơn giản, Thiên Chúa là tinh thần thì cũng sẽ tiếp xúc với bản chất tinh thần của con người thông qua mặc khải. Theo đó, mặc khải không thể xảy ra nếu không có kinh nghiệm thần bí về ân sủng. Quả thật, ngôn từ bên ngoài của con người chỉ diễn tả niềm tin về một ý kiến nào đó mà thôi. Chúng ta không thể tin nếu chỉ tiếp nhận nội dung mặc khải từ một người khác mà không có chút kinh nghiệm gì về ân sủng. Chính ân sủng soi sáng đó được gọi là mặc khải.
Từ những tiếp cận còn hạn chế về bản văn và cũng như nền tảng tri thức nêu trên, bài viết ghi nhận một vài điểm về lý thuyết mặc khải của Karl Rahner cũng như cố gắng nhìn nhận tư tưởng đó trong các mẫu thức. Thật ra, Karl Rahner chưa trực tiếp bàn về mặc khải trong các tác phẩm của mình mà chỉ đề cập đến nội dung mặc khải như là nền tảng cho những suy tư thần học. Có thể tri nhận, Karl Rahner tập trung vào mặc khải siêu nghiệm như một phần của lý thuyết thần học siêu nghiệm của ông. Khi nói về người tín hữu vô danh trên nền tảng mặc khải đó, Karl Rahner thể hiện đặc tính mục vụ trong nền thần học của ông. Việc nhìn nhận mọi người chưa chính thức gia nhập vào Kitô giáo là các tín hữu vô danh cũng lãnh nhận được ân sủng qua mặc khải siêu nghiệm, người Kitô hữu sẽ không ngừng thực hiện sứ vụ rao truyên phúc âm vốn được đặt để khi nhận bí tích Rửa tội. Lời mọi gọi mở mình ra và sống yêu thương dễ dàng thực hiện hơn trong niềm hy vọng các Kitô hữu vô danh sẽ được gọi là Kitô hữu. Đó cũng là bước nâng tầm tri thức lên một tầm cao mới. Rahner cũng chỉ ra rằng Chúa Giêsu Kitô là đỉnh cao và là trọn vẹn mặc khải siêu nhiên. Từ đó, việc đặt Người làm vị trí trung tâm của đời sống Kitô hữu và đời sống giáo hội trở nên rõ ràng và cần thiết nhất.  Cùng bước trong tiến trình đó, một lời mời gọi khác là biết Chúa hơn là biết về Chúa cũng được được đề cập. Việc quá cổ hữu, cứng nhắc và khô khan trong các mệnh đề và bản văn cần được xem xét vì Thiên Chúa hiện diện với con người và chỉ có Người mới tri thức tối thượng làm thỏa mãn bản chất hiếu tri của con người.   

Thư Mục
1.      Avery Dulles, S.JModels of Revelation. (Image Books – New York1985).
2.      Karen Kilby. Karl Rahner Theology and Philosophy. (Routledge – London, 2006).
3.      Karl Rahner. Enconters with Silence. Translated by James M. Demske. (The Newman Press – Westminster, Maryland, 196)
4.      Karl Rahner. The Content of Faith. Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006). 592.
5.      Karl Rahner. The Trinity. Translated by Joseph Donceel. (Burns and Oates a Contunuum Imprint – New York, 2001).
6.      Joseph A, Komonchak, Ed. The New Dictionary of Theology, (Michael Glazier, inc., Delaware, 198).




[1] Joseph A, Komonchak, Ed. The New Dictionary of Theology, (Michael Glazier, inc., Delaware, 198). 884.
[2] Karen Kilby. Karl Rahner Theology and Philosophy. (Routledge – London, 2006). 32-35.
[3] Karl Rahner. The Content of Faith. Edited by Kark Lehman, Albert Raffelt, and Harvey D. Egan. (CrossRoad – New York, 2006). 592.
[4] Ibid. 593.
[5] Ibid. 402.
[6] Ibid. 401.
[7] Ibid. 402.
[8] Karl Rahner. Enconters with Silence. Translated by James M. Demske. (The Newman Press – Westminster, Maryland, 196). 33.
[9] Karl Rahner. The Trinity. Translated by Joseph Donceel. (Burns and Oates a Contunuum Imprint – New York, 2001). 14.
[10] Karl Rahner. Enconters with Silence. Translated by James M. Demske. (The Newman Press – Westminster, Maryland, 196). 33.
[11] Avery Dulles, S.JModels of Revelation. (Image Books – New York1985). 25.
[12] Ibid. 98.

No comments: